Có một câu chuyện ngụ ngôn khiến người ta phải suy gẫm
Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa.
Một hôm nọ trâu đi làm về,thấy
chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó
nổi cáu bảo:
- Không có ai sung sướng bằng
mày,chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!
Con chó nghe con trâu hậm hực
nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí.
Nó bèn nói với trâu:
- Anh trâu không hiểu đâu, tôi
nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có
giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn
ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng
thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để
tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để
xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được .
Đêm đêm trong khi mọi người
ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt
nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà
vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc
tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút
giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi
khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ
đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi
đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và
tôi ai sướng hơn ai chứ?
Con trâu nghe nói mới hiểu tình
cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi:
- Đúng là mày cũng không sung
sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không
hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày
nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.
Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở:
- Bọn chim trời cá nước sung
sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản
thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp
tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế.
Khi ấy một chú chim nghe thấy
lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói:
- Anh trâu ơi, anh không biết
đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không
phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc,
nhưng chúng tôi cũng có lỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn dình dập chúng tôi, những
kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó
khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng
chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất.
Loài người biết thương con của
mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn
tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt,nấu nướng,
thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống
muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng
tôi, không có ai sung sướng cả.
Đàn cá đang ở dưới mé nước nghe
trâu nói mình sướng cũng không đồng tình:
- Còn loài cá chúng tôi cũng
không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần
bị sát hại chết đến cả đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống,
đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt.
Trâu nghe chim và cá nói thì
ngao ngán thở dài não nuột:
-Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu
biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này.
Nói như thế rồi trâu buồn bã đi
vào chuồng, nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ,
loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài
người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu
sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà
vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào
lên:
-Sao tôi khổ đến thế này,
không bằng con trâu con chó nữa! con trâu đi cày còn được nghỉ,
còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền,
làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? vậy
mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến.
Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở!
Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng
giật mình, bất giác than rằng:
- Hóa ra sống ở trên đời
đâu có ai không khổ!
Trong chúng ta, mỗi người có
một hoàn cảnh, xuất thân, có một hoàn cảnh sống, có thể là vui, có thể là khổ,
nhìn chung là như thế, song nếu xét cho kỹ thì không ai hoàn toàn hạnh phúc,
chỉ khác nhau là ít, nhiều những nỗi vui, khổ mà thôi. Khổ và vui đan xen,
chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta, không
một ai thoát cả.
Người trẻ có những cái khổ của
người trẻ, người già có những cái khổ của người già; người giàu có cái khổ của
người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, dù trong hoàn cảnh nào cũng
có những điều không như ý, cũng có những nỗi khổ thân, khổ tâm, hoặc cả thân
tâm đều khổ.
Có ai không lo lắng, không hối
tiếc, không trông mong, hy vọng điều gì ? Có ai chưa bao giờ buồn phiền, thất
vọng,, hay bất mãn, chán nản? Có ai hoàn toàn khỏe khoắn, thoải mái cả về thể
xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai. Cũng như Đoàn Như Khuê đã nói
trong bài thơ Bể thảm:
“Bể
thảm mênh mông sóng lụt trời.
Khách
trần chèo một lá thuyền chơi
Thuyền
ai ngược gió ai xuôi gió
Gẫm lại
cùng một bể thảm thôi”.
Đức Phật đã từng nói: “Nước mắt
chúng sinh nhiều hơn nước biển”, và khẳng định bản chất cuộc đời
là Khổ, một sự thật hiển nhiên (Khổ đế). Bởi vì trong hoàn cảnh nào thì con
người cũng không thoát khỏi sự chi phối của định luật vô thường, mà hễ vô
thường thì khổ. Cụ thể là con người khổ vì sinh , già bệnh, chết, khổ vì mong
cầu không toại nguyện , tử biệt sinh ly, khổ vì oán ghét mà phải gặp nhau, khổ
vì ngũ ấm bất hòa, cả thân, tâm đều khổ.
Khi nhận biết cuộc đời là khổ,
và cái khổ tác động đến tất cả mọi người cho dù con người có ở hoàn cảnh , địa
vị, hay thân phận nào đi chăng nữa; bấy giờ chúng ta sẽ không còn cảm thấy đau
khổ vì cho rằng mình khổ hơn người khác; mình là kẻ bất hạnh, vô phần hơn người
khác; cũng như trường hợp con trâu trong câu chuyện ngụ ngôn nói trên.
Khi nhận biết cuộc đời là khổ,
chúng ta sẽ bớt tham đắm và chịu huệ lụy bởi cuộc đời, biết tìm cho mình phương
cách sống tích cực để có được cuộc sống an vui hạnh phúc; ví dụ,
biết sống thiểu dục tri túc, biết xả ly, biết yêu thương san sẻ v.v. Khi
nhận biết cuộc đời là khổ, chúng ta mới có nhu cầu thoát khổ, mới có ý muốn,
chí hướng tu tập tìm con đường giải thoát khổ đau. Đây chính là lý do vì sao
Đức Phật nói Khổ đế trước khi dạy các pháp môn tu là phần Đạo đế. Khi chiêm
nghiệm về sự khổ ở thế gian,
“Đường
danh nẻo lợi lắm người trông,
Chen
chúc làm chi giữa bụi hồng.
Kìa
bong nguyệt câu qua cửa sổ,
Nọ
tranh vân cẩu có rồi không.
Lỡ
cười, lỡ khóc trên sân khấu,
Khi nở
, khi tàn mấy cụm bông.
Muốn
kiếp phù sinh ra khỏi lụy.
Quyển
kinh câu kệ chớ nài công”.
Muốn cuộc đời an vui không còn khổ nữa, muốn thoát ra khỏi những
triền phược, hệ lụy thì phải cố gắng tu, bởi vì: ” Hữu vi là pháp vô thường, sớm còn tối mất vô phương vững
bền . Một mai sinh diệt đã không, Niết –bàn an lạc thong dong tháng ngày”.
Ngày xưa khi còn là thái tử, Đức phật đã bỏ cung vàng điện ngọc
xuất gia đi tu, vua Trần Thái Tông cũng từ bỏ ngôi vua vào núi tu hành. Các
ngài nhận thấy làm vua cũng không sung sướng như người ta tưởng, làm vua cũng
có những cái khổ của một vị vua và những cái khổ chung mà mọi chúng sinh phải
chịu.
Trong bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển ở thành Ba-la-nại, Đức
Phật đã nói về bản chất của thế gian là bất toàn, vô thường, bất toại nguyện,
đau khổ( gọi chung là dukkha). Đức Phật nói nguyên nhân của khổ (Tập đế) là do
hành động tạo tác của thân và tâm ý (Nghiệp) dưới sự thúc đẩy của phiền não vô
minh và ái dục.
Đức Phật cũng nói về hạnh phúc chân thật có được khi khổ đau
không còn ( Diệt đế), và Ngài chỉ rõ con đường đưa đến hạnh phúc chân thật
đó (Đạo đế) là con đường Bát Chánh Đạo:
**Chánh kiến: thấy biết đúng đắn sự thật
của cuộc đời, hiểu rõ pháp Tứ đế.
**Chánh tư duy: suy nghĩ đúng đắn phù hợp chân
lý.
**Chánh ngữ: lời nói chân chánh.
** Chánh nghiệp: làm những việc lành có ích
cho mình, cho người khác.
**Chánh mạng: sống bằng nghề chơn chánh, lương thiện.
**Chánh tinh tấn: siêng năng, chuyên cần theo chiều hướng tiến bộ, tu dưỡng bản
thân và tích cực làm lợi ích cho nhân loại chúng sinh.
**Chánh niệm: luôn ý thức
và kiểm soát hành vi của thân, khẩu, ý, luôn nhớ nghĩ các pháp lành, tâm an trú
trong thiện pháp.
**Chánh định: nhiếp phục tâm ý, có định lực, có tuệ quán
Nội
dung Bát chánh đạo có thể nói không ngoài bài kệ sau:
Không làm các việc ác
Siêng làm các việc lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Đó là lời Phật dạy.
Siêng làm các việc lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Đó là lời Phật dạy.
(Pháp cú 183)
Từ Bi & Bạo Lực
TK THÍCH CHÂN TUỆ Trong thành Xá Vệ (xứ Kosala), ai cũng biết Angulimala là một kẻ sát nhân nguy hiểm. Khi nghe tin Angulimala xuất hiện trong thành phố, mọi người đều kinh sợ. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng đối với Angulimala, phải huy động cả quân đội mới có thể bắt được. Dân chúng xem Angulimala như ác quỉ, không có tình thương. Tất cả dân chúng trong thành người nào cũng đồng ý là gặp Angulimala thì phải giết, phải tiêu diệt. Chỉ trừ có một người. Người đó nghĩ rằng trong Angulimala vẫn còn có hạt giống thiện. Người đó là đức Thế Tôn. Nhưng chưa ai có khả năng khơi dậy hạt giống đó, cho nên Angulimala chưa có cơ hội để quay đầu trở thành con người tốt.
Angulimala đã giết rất nhiều người.
Mỗi khi giết một người, anh ta cắt một ngón tay, rồi xỏ xâu đeo vào cổ. Nghe
nói anh ta đã có 99 đốt xương rồi. Anh ta muốn giết thêm một người nữa cho đủ
số 100, để có xâu chuỗi nạp cho tà giáo. Chữ ‘mala’ trong danh từ Angulimala có
nghĩa là xâu chuỗi. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội).
Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành,
đang bưng bát đi khất thực từng bước thảnh thơi thì nghe có tiếng chân chạy
phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn bình thản bước
đều.
Đức Thế Tôn không cần phải thi thố
phép thần thông. Ngài có niềm tin lớn nơi tình thương và trí tuệ của mình để
vượt khỏi những tình trạng khó khăn. Angulimala lớn tiếng gọi:
- Tu sĩ kia, đứng lại!
Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau
hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại. Thấy vậy,
Angulimala lớn tiếng hơn:
- Đứng lại! Tu sĩ kia, đứng lại!
Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước
đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đã đuổi kịp
và la lên:
- Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không
dừng?
Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng
điềm tĩnh:
- Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ
lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.
Chưa bao giờ nghe một câu nói kỳ lạ
như vậy, Angulimala ngạc nhiên hỏi:
- Ông nói sao? Ông đang đi rõ ràng mà
tại sao nói ông đã dừng lại?
Đức Thế Tôn từ tốn nói:
- Này Angulimala, trên con đường tạo
tác những ác nghiệp thì ta đã dừng lại từ nhiều kiếp rồi. Còn anh, anh vẫn còn
đang tiếp tục, anh nên dừng lại!
Lúc đó đức Thế Tôn đứng lại.
Angulimala cũng đứng lại. Đức Thế Tôn nhìn thẳng vào Angulimala mà nói:
- Anh biết không, ở đời ai cũng sợ đau
khổ, ai cũng muốn sống, ai cũng sợ chết. Mình phải biết thương người!
Angulimala la lên:
- Trên đời này có ai thương tôi đâu,
mà bảo tôi thương họ? Loài người là loài độc ác nhất ở trên đời, tôi muốn tiêu
diệt hết loài người cho hả dạ tôi.
Đức Thế Tôn nói:
-Này Angulimala, tôi biết anh đã chịu
nhiều đau khổ. Cuộc đời đã bạc đãi anh, người ta đã không tử tế với anh, đã làm
khổ anh. Anh đâm ra hận thù cuộc đời! Nhưng anh nên biết: hận thù chỉ làm cho
mọi người thêm khổ đau, chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc cho đời mà
thôi.
Angulimala la lớn:
- Tình thương hả? Ai là người có tình
thương, ông chỉ cho tôi coi?
Đức Thế Tôn vẫn dịu dàng:
- Anh đã từng gặp vị tỳ kheo hay tỳ
kheo ni nào chưa? Các vị đó không những tôn trọng sinh mạng của con người, họ
còn tôn trọng sự sống của loài vật. Họ tôn trọng các loài cỏ cây và đất đá nữa.
Nếu anh gặp được họ, anh sẽ thấy rằng
tình thương là cái gì có thật. Khi có tình thương trong lòng, người ta không
còn đau khổ nữa.
Hận thù là một khối lửa đốt cháy con
người, đốt cháy thế gian. Anh nên quay đầu lại, từ khước bạo lực, trở về với
con đường cảm thông và yêu thương.
Những lời nói của Thế Tôn tràn đầy từ
bi, phát xuất từ trái tim. Angulimala là một con người thông minh nhưng bị hận
thù che lấp. Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng, và anh
ta biết rằng mình đang đứng trước mặt Đức Phật Thích Ca. Ngài đã vì lòng thương
xót mà đến cứu anh ra khỏi vòng tội lỗi.
Anh ta vứt gươm xuống đất, xin Đức
Phật cho được xuất gia. Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản: - "Ehi!
Bikkhu" (Hãy đến! Tỳ kheo).
Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần
của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi
tiếng kêu khóc của những người bị ông sát hại. Có hôm, đi khất thực, ông bị
quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu, chảy máu.
Đức Phật giải thích cho biết, đó là
Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình. Sau này, Angulimala tu chứng thánh quả
A la hán.
Chúng ta thấy câu chuyện Angulimala
gặp đức Thế Tôn là một cuộc đấu gươm rất ngoạn mục. Angulimala có thanh gươm
của bạo lực và hận thù. Đức Thế Tôn có thanh gươm của từ bi và trí tuệ. []
SUY NGẪM
Tu theo đạo Phật cốt tủy là tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển
nghiệp. Ngược lại, nhiều người tại gia cũng như xuất gia ưa chuộng hình tướng
bên ngoài, bày vẽ các nghi lễ, cách trang phục rườm rà, phức tạp, thích nghe và
truyền bá các chuyện linh thiêng, huyền bí, mê tín, huyễn hoặc, như hoa mạn đà
la, hào quang chiếu sáng trên nóc chùa, trên tượng lộ thiên, thường ngày không
lo tu tập.
Tu
theo đạo Phật cốt tủy là nổ lực chuyển hóa tâm niệm bất thiện, thành tâm niệm
thiện lành, chuyển hóa tam nghiệp thân, miệng, ý hằng thanh tịnh. Tam nghiệp hằng
thanh tịnh, đồng Phật vãng tây phương. Không cần phải mong cầu. Không cần phải
van xin. Đạo Phật rất thực tế. Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Con người phải nổ
lực tự tu, tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp, trong suốt đời sống
hàng ngày, để trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ và đạt được thành tựu tốt
đẹp, hoàn mãn. []
BAN BIÊN-TẬP
PHTQ.CANADA
cutranlacdao@yahoo.com
Kính mời xem bài viết theo link:
KHÔNG
LẦM THÂN MỘNG
CUỘC
ĐỜI VÔ GIA CƯ
NHẪN (CAO HUY THUẦN)
TỘI VÀ NGHIỆP
NGƯỜI TẠI GIA TU PHẬT
THÂN NGƯỜI KHÓ ĐƯỢC-PHẬT PHÁP KHÓ NGHE