CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Nương theo giáo pháp Phật Đà
Chữ Tâm Phật dạy giúp ta độ đời.
Đến bờ giác ngộ thảnh thơi
Thoát ly phiền năo cuộc đời an vui.
Trong nhà Phật, tam
tạng kinh điển ghi lại lời dạy của chư Phật, chư Bồ Tát và chư vị Tổ Sư.
Đó là thiền lâm bảo huấn, nghĩa là: các lời dạy quí giá trong rừng thiền.
Người phát tâm tu theo Phật thật khó khăn khi phải chọn lựa kinh sách nào để
đọc trước, sao cho có thể hiểu biết chánh pháp rõ ràng và áp dụng được vào đời
sống hằng ngày. Trong khi đọc tụng kinh sách, người tu học Phật cũng gặp khó
khăn với các từ ngữ chuyên môn, dù là tiếng Việt, tiếng Hán Việt, hay các ngôn
ngữ khác, cần phải tìm hiểu thấu đáo, qua tự điển, hay nhờ các bậc thiện tri
thức giảng giải, giúp đỡ. Sau khi cố gắng lắm mới tạm vượt qua được sự khó khăn
này, người tu tập thường gặp phải ngưỡng cửa: dù đã học hiểu rành rẽ giáo lý,
nhưng vẫn chưa vào được đạo! Thế nào là: vẫn chưa vào được đạo?
Người tu hành nhiều
năm, dù tại gia hay xuất gia, nếu chưa đủ duyên, nếu chưa gặp được hoàn cảnh để
sáng đạo, ngộ đạo, thấy đạo, vào được đạo, thì người đó vẫn lòng vòng bên ngoài
cửa đạo, vẫn dậm chân tại chỗ ban đầu, vẫn công phu tu tập chậm chạp, vì các
nghi lễ nặng phần hình thức, vì các việc làm mong cầu phước báo, vì tâm chấp
chặt nhị biên những định kiến đúng sai phải quấy, vì tâm mong cầu bình yên sung
sướng, vì tâm chưa thanh tịnh, còn quá lăng xăng lộn xộn bên trong, còn bị trần
duyên bên ngoài chi phối. Thực ra, dù đạo Phật có một rừng kinh điển, sách vở,
thích ứng cho đủ mọi căn cơ, trình độ, giới thiệu tất cả các pháp môn tu tập tự
cổ chí kim, trình bày các kinh nghiệm tu hành từ xưa đến nay, nhưng tất cả
những kinh điển, sách vở đó đều nhằm mục đích duy nhất là: khai mở và chỉ bày
cho tất cả mọi người thấy rõ cái bản tâm thanh tịnh của chính mình. Còn bổn phận của chúng ta là:
ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh
đó. Nếu không ngộ được điều này, tức là không sống được với bản tâm thanh tịnh,
người tu tập dụng công phu nhiều, nhưng thu lượm kết quả chẳng được bao nhiêu.
Người nào ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh, tức là giữ được tâm bình thường,
là người thấy đạo, vào được đạo.
Cho nên, Thiền sư Phổ
Nguyện Nam Tuyền có dạy: "Bình
Thường Tâm Thị Đạo", chính là nghĩa như vậy. Nói một cách khác, tất cả kinh điển giáo lý của đạo Phật có thể
tóm gọn vào một chữ, đó là chữ TÂM, mà thôi. Nắm vững được chìa khóa quan
trọng này rồi, người tu học Phật có thể mở toang được tất cả các cánh cửa của
nhà Phật, thấu hiểu những lời dạy của chư Phật, chư vị Tổ sư trong các kinh
điển, sách vở, mục đích thấy được con đường giác ngộ và giải thoát, để xây dựng
đời sống hiện tại được an lạc và hạnh phúc. Trong phạm vi bài viết này, chúng
ta sẽ tìm hiểu chữ TÂM qua các
kinh điển và kinh nghiệm tu tập thực tế của các bậc tôn túc cổ kim. Mỗi
đề mục đều có công năng giải bày bản tâm thanh tịnh, hay tóm gọn vào một chữ,
chỉ rõ đó là: chữ TÂM trong Đạo Phật.
A .- Chữ TÂM qua lời dạy của chư Phật:
1) Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Nhứt thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là: Mọi sự mọi
việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi
tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn,
thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường
tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ
chân thật của cuộc đời là: vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có
gì là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân. Luật nhân quả áp dụng trong ba
thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sanh sự thì sự sanh. Nhân nào thì quả nấy.
Gieo gió thì gặt bảo. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện với tâm lăng xăng lộn xộn,
chỉ đem lại sự bình an tâm trí tạm thời. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện
tâm. Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất
cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà thôi. Bởi vậy cho nên, có
bài kệ như sau:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chân sám hối.
dịch là:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Đó chính thực là chân sám hối.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chân sám hối.
dịch là:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Đó chính thực là chân sám hối.
Nghĩa là: Tất cả những
tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, thì phải thành tâm mà sám
hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi
khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại,
không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không
còn tái phạm nữa. Khi tội lỗi không còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con
người sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm trí. Đó mới thực
là sự sám hối chân chánh.
2) Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Tùy tâm
biến hiện".
Nghĩa là: Mọi sự mọi
việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai,
phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm của chúng ta biến hiện ra
cả. Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai,
không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời nào, không nơi
nào giống với nơi nào. Trong sách có câu:
“Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.”
“Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.”
Nghĩa là: Cùng một
cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo não, chúng ta không thấy cảnh vui
chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá,
cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm
buồn thảm lê thê là chúng ta? Cùng một câu nói như vậy, nếu tâm an ổn,
vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là: nói đúng nói phải, nói sao cũng được, nói
ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cũng cho
là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói
quấy nói quá. Vậy, hãy thử nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt,
hay tâm không tốt? Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi bất
thường như vậy, thực không phải là chúng ta.
3) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức thị niết bàn".
Nghĩa là: Khi nào dứt
sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới thấy được niết bàn. Ba cõi, còn gọi
là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi tâm tham nổi lên,
chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm tham dục, cảm thấy đau
khổ triền miên vì lòng tham của con người không đáy, không bao giờ thỏa mãn
được. Con người sống trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu
thốn, được bao nhiêu cũng không thấy đủ, cho nên luôn luôn chạy đôn chạy đáo,
tìm kiếm ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi tâm
sân nổi lên, ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới chấp
chặt sắc tướng, lòng như thiêu đốt, sắc mặt tái xanh, vì sự tức giận, vì sự bất
mãn. Dù tâm tham không còn, tâm sân cũng tai hại vô cùng.
4) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai".
Nghĩa là: Một khi tâm
niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc
phục, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại
tiếp nối theo sau đó. Khi tâm si nổi lên, chúng ta sống trong vô sắc giới, tức
là cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo
tội tạo nghiệp bằng cách: hãm hại trả thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo gian,
thưa gửi kiện tụng, không cần biết hậu quả khổ đau đối với các người khác và
gia đình họ. Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự
hối tiếc, đau khổ sau đó, cho mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên
suốt cả cuộc đời. Bởi vậy cho nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si,
trong kinh sách gọi đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống
mới an lạc và hạnh phúc.
5) Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật có dạy: "Người nào giữ được nhứt tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, thì người đó được vãng sanh tây phương".
6) Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền năo, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề". Nghĩa là: Người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn luôn giữ gìn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền não, gọi là: nhứt tâm bất loạn. Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề. Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được vãng sanh cảnh giới tịnh độ. Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
7) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng tâm".
"Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân tâm".
Nghĩa là: Chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính mình: khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ ràng.
Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp. Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm trọn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện.
Đây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo
đạo Phật:
Trong tâm khởi niệm,
nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là: chân tâm.
Trong tâm khởi niệm,
nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành: vọng tâm.
Cũng ví như là: Khi có
gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như tâm lăng xăng lộn xộn.
Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm
thanh tịnh, hay tâm bình thường.
8) Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật có dạy: "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy? Cũng vậy, bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng".
9) Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
"Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh".
"Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp".
Nghĩa là: Con người ai
ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ.
Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc vì tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì
tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người
mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên
đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, muôn kiếp trước, và
sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không chịu dừng nghiệp và
chuyển nghiệp.
Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây não loạn cho người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện thưa đòi tiền bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đă lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay!
Chính vì biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh. Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!
10) Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc".
Nghĩa là: Chuyện quá
khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm
nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Muốn làm được điều này, ở trong gia đình
hay ngoài xã hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết
cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo
cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai
chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chi bằng chúng ta giữ
gìn tâm trí được như như, bình tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không?
Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu. Đó
chính là nghiệp quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả báo. Hiểu sâu được luật
nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến. Nếu không
muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm
dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ư bất thiện. Trong kinh
sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
11) Trong Kinh Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật có dạy:
"Tâm tịnh thì độ tịnh. Tâm địa bình thì thế giới bình".
Nghĩa là: Khi những
vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt sạch, người tu tập không còn
tham, không còn sân, không còn si. Đến đây, người tu tập đạt được cảnh giới bất
nhị, tức là không còn kẹt hai bên, không còn thị phi, không còn phải quấy,
không còn tranh chấp, không còn hơn thua, không còn tạo tội, không còn tạo
nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhứt tâm bất loạn. Lúc đó, tâm tịnh,
tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng,
tức là tâm an nhiên tự tại, không còn điều gì có thể ngăn ngại được, gây lo sợ
khủng khiếp được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo, là bỏ được mộng
tuởng, đạt được cứu kính niết bàn. Mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên
tâm, khi sống gần người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình. Thế giới chung quanh
thanh bình, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy.
12) Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình".
"Tự thắng tâm mình là điều cao quí nhứt".
Thắng được vạn quân,
con người tóm thu được quyền lực, danh vọng, tiền tài, của cải vật chất, đủ mọi
thứ trên trần đời. Nhưng tâm người đó vẫn sống trong tam giới: dục giới,
sắc giới, và vô sắc giới, cho nên vẫn còn phiền não khổ đau, vẫn còn sanh tử
luân hồi.
Muốn xuất được
tam giới gia, chúng ta phải luôn luôn quán sát tâm chính mình: Khi nào tâm
tham, tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không theo. Lúc đó chúng ta đã tự
thắng mình: tức là tự kềm chế hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ của chính mình.
Người ta công kích, khích bác, vu khống, phỉ báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục,
mắng nhiếc, người nào phản ứng nhanh, trả đũa nặng nề thì dễ quá, thường
quá. Người nào tự thắng tâm mình, nhẫn nhịn được mà không thấy nhục nhằn,
nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng kính phục, mới là
điều cao quí nhứt.
13) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Tâm khẩu nhứt như". Nghĩa là: "Tâm khẩu không khác".
Tâm nghĩ sao, miệng
nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, cuộc sống mới được an
lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm
không như vậy, nên sách có câu: Miệng thì nói tiếng nam mô. Trong lòng
chứa cả một bồ dao găm. Ở trên đời này, đố ai
lấy thước để đo lòng người. Trong sách có câu: “Tri nhân tri diện bất tri
tâm,” nghĩa là: biết người chỉ biết mặt, không biết được tâm địa. Cho
nên chư Tổ có dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là: hãy quay lại, quán sát tâm chính
mình, để giữ tâm khẩu nhứt như.
14) Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện".
Nghĩa là: Khi khắc chế
được tâm ư, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, qua
sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí bình tĩnh thản nhiên, không còn chuyện gì để
cãi vã nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không có sự việc gì người tu tập không
hiểu biết sáng tỏ, rõ ràng, không biện luận được một cách thông suốt. Điều
này giải thích rằng: không có vị Phật nào không biết thuyết pháp độ sanh.
B .- Chữ TÂM qua lời dạy của chư Tổ:
1) Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tâm thông thì thuyết thông".
Hành giả nào thực tâm
tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay xuất gia tu sĩ, tâm trí thông suốt,
đạt được đến đâu, thuyết giảng thông suốt, đến mức độ đó, lợi ích chúng sanh.
Ví như trước có học hành nghiêm túc, chân tu thực học, sau đó mới có thể làm
thầy chỉ dạy người khác.
2) Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu".
Nghĩa là: Khi tâm địa,
hay tâm thức, hoàn toàn trống rỗng, lặng lẽ, lẵng lặng, thanh tịnh, không còn
chứa chấp những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ
bát nhã tự bừng sáng. Cũng như mây đen tan biến hết, tức là phiền não
không còn nữa, tâm thức không tịch, thì mặt trời trí tuệ tự chiếu sáng.
Tâm được thanh tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng
được bình yên. Một căn phòng tăm tối ngàn đời, nhưng chỉ cần bật điện một cái,
hay đem vào một ngọn đèn, thì liền sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn năm sau nữa,
mới chịu sáng lại. Cũng vậy, khi con người chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ của mình
với ngọn đuốc chánh pháp của chư Phật, chư Tổ, thì ngọn đuốc trí tuệ của mình cũng
bừng sáng lên ngay. Giây phút bừng sáng đó, trong thiền tông, gọi là: ngộ đạo, nhập đạo, vào đạo.
3) Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm cảnh không dính nhau là giải thoát".
Nghĩa là: Chúng ta vẫn
thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời, trong kinh
điển gọi là: kiến văn giác tri, nếu tâm không dính mắc, thì không phiền
não. Không phiền não tức là giải thoát. Thật là hết sức đơn
giản! Lý lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất cứ ai
cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến, không phân biệt tôn
giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức, nam nữ, già trẻ, bé
lớn, giàu nghèo, sang hèn. Tâm không phan duyên chạy theo cảnh trần là: giải thoát!
4) Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông có dạy:
"Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền". Nghĩa là: Khi nào đối trước cảnh trần, tâm không còn dính mắc, không khởi bất cứ tâm niệm gì, trong kinh sách gọi là: vô tâm vô niệm, tức là không còn khởi tâm tham sân si, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm sẽ được khinh an, tự tại, đó là: thiền định niết bàn. Con người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp xúc với các cảnh trần: hình ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm và ký ức. Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh, mà bị dính mắc, tức là: trong tâm khởi niệm thương hay ghét, khen hay chê, ưa thích hay tức giận, đều gọi là: loạn tâm vọng tâm. Không khởi bất cứ tâm niệm nào cả, gọi là: định tâm, hay: tâm thiền định. Đây chính là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
5) Thiền sư Mă Tổ Đạo Nhất có dạy:
"Tức Tâm thị Phật" hay "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật".
Nghĩa là: Tâm của
chúng ta chính là Phật, Phật chính là tâm của chúng ta. Khi chúng ta hành động,
nói năng hay suy nghĩ bất thiện, lợi mình hại người, tức là tam nghiệp không
thanh tịnh, tâm Phật ẩn mất. Khi chúng ta hành động, nói năng hay suy
nghĩ hiền thiện, lợi mình lợi người, tức là tam nghiệp thanh tịnh, tâm Phật
hiển hiện. Thực là đơn giản.
Vì không chịu học hiểu giáo lý, biết bao nhiêu người gọi là Phật Tử, tại gia hay xuất gia, tin theo đạo Phật, không khác gì ngoại đạo. Ngoại đạo nghĩa là: tuy vẫn thờ tượng Phật, tại gia hay là tại chùa, nhưng vẫn thường ngày ngoài tâm cầu đạo, chỉ biết lo chuyện cúng kiến lễ nghi, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, cầu khẩn van xin, cầu nguyện khấn vái, đủ thứ mọi điều, nhưng không hiểu không biết Phật ở nơi đâu? Ngoài tâm không có Phật, cầu Phật ngoài tâm, là nghĩa gì? Phật không ở trong chùa, không ở trong các pho tượng, bằng vàng hay bạc, bằng đồng hay cây. Phật không ở trên mây, trên non hay trên núi. Phật không ở dưới suối, dưới sông, dưới biển. Chúng ta không cần phải đi đến xứ Ấn Độ xa xôi, hay bất cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Phật đang ở ngay trong tâm của chúng ta.
Vì không chịu học hiểu giáo lý, biết bao nhiêu người gọi là Phật Tử, tại gia hay xuất gia, tin theo đạo Phật, không khác gì ngoại đạo. Ngoại đạo nghĩa là: tuy vẫn thờ tượng Phật, tại gia hay là tại chùa, nhưng vẫn thường ngày ngoài tâm cầu đạo, chỉ biết lo chuyện cúng kiến lễ nghi, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, cầu khẩn van xin, cầu nguyện khấn vái, đủ thứ mọi điều, nhưng không hiểu không biết Phật ở nơi đâu? Ngoài tâm không có Phật, cầu Phật ngoài tâm, là nghĩa gì? Phật không ở trong chùa, không ở trong các pho tượng, bằng vàng hay bạc, bằng đồng hay cây. Phật không ở trên mây, trên non hay trên núi. Phật không ở dưới suối, dưới sông, dưới biển. Chúng ta không cần phải đi đến xứ Ấn Độ xa xôi, hay bất cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Phật đang ở ngay trong tâm của chúng ta.
Tóm lại, trên cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức hay bình dân, dù nam phụ lão ấu, dù da trắng da đen hay da màu, dù vua chúa hay dân chúng, nói chung, bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm bệnh. Đối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu, sổ mũi, cảm cúm, đau tim gan tim phế thận, con người cần tới khả năng trị bệnh của các vị thầy thuốc, dù đông y hay tây y. Để pḥòng ngừa thân bệnh, có những phương pháp tập thể dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế độ ăn uống thích ứng với từng lứa tuổi, và tình trạng sức khỏe cá nhân.
Con người đối với tâm bệnh, chẳng hạn như tâm tham sân si, tâm ganh tị đố kỵ, tâm hơn thua phải quấy, tâm thành kiến cố chấp, tâm lo âu sợ sệt, tâm loạn động bất an, con người cần phải tìm hiểu chánh pháp và áp dụng trong đời sống hằng ngày. Ngay đến Đức Phật là bậc toàn giác, trí tuệ sáng ngời, phước báu vô biên, vẫn CÓ thân bệnh, nhưng KHÔNG phiền năo và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn cảnh. Nói một cách khác: Đức Phật không có tâm bệnh. Bất cứ ai sống trên đời này, còn mang thân xác con người, là còn khổ về thân bệnh, nếu không giác ngộ được chân lý vi diệu nhiệm mầu. Các vị giáo chủ của các tôn giáo cũng có thân bệnh và rồi cũng chết như mọi người mà thôi.
Khi đứng trong một căn pḥòng, cầm đèn rọi ra bên ngoài, thì mình sẽ thấy rõ, biết rõ cảnh vật bên ngoài, còn bên trong căn phònǵ tối thui. Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào bên trong căn phòng, dĩ nhiên căn phòng sáng tỏ, một cách rỏ ràng, con người có thể thấy mọi thứ đồ đạc và đi đứng không bị vấp ngã. Cũng vậy, khi phóng tâm quán sát bên ngoài, con người có thể phê phán người này đúng, người kia sai, chuyện này phải, chuyện kia quấy.
Con người có thể biết chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế giới, chuyện văn chương kim cổ đông tây, muôn sự mọi việc bên ngoài đều biết rõ ràng rành mạch. Trái lại, chuyện bên trong tâm trí của chính mình thì mù tịt, chẳng biết tí gì cả! Mình thực sự là ai, chẳng biết! Mình thực sự đang muốn gì, chẳng biết! Mình thực sự đang làm thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự đang nghĩ thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự sống trên đời để làm gì, chẳng biết! Mình sau này sẽ đi về đâu, nếu vẫn cứ tạo tội tạo nghiệp hằng ngày, chẳng biết! Chuyện gì thuộc về bên trong, thuộc về nội tâm, chúng ta cũng đều chẳng biết! Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi. Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Điều quan trọng trong
đạo Phật chính là:
Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
Nếu tâm dính mắc, gọi là: tâm phan duyên, tâm loạn động.
Nếu tâm không dính mắc, chính là: bản tâm thanh tịnh vậy.
Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
Nếu tâm dính mắc, gọi là: tâm phan duyên, tâm loạn động.
Nếu tâm không dính mắc, chính là: bản tâm thanh tịnh vậy.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
TRĂM NGÀN MUÔN
KIẾP KHÔNG DỄ GẶP
TKN Thích Nữ Chân Liễu
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một
thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một
tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt, xuyên qua kinh nghiệm
bản thân chứng đắc giác ngộ của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và chư lịch đại
Tổ Sư đắc đạo.
Đức hạnh từ bi hỷ xả cao cả, cung cách
thuyết giảng và hành xử của Đức Phật vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị biên, phá bỏ
mọi chấp thủ, giải tỏa mọi phiền não, chế ngự được tâm lý sôi nổi và kích động
đầy sai lầm của con người. Lời giáo huấn của Đức Phật từ bi lắng dịu, tinh
khiết, trong sạch, không có tham ái ô nhiễm, dễ điều phục và luôn tỉnh giác. Vì
vậy đạo Phật sẽ mãi mãi thăng hoa, tồn tại và tiếp tục được sứ mệnh hóa giải
khổ đau cho nhân loại cho nhiều thế hệ sau nữa.
Đức Phật đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni
nước Ấn Độ. Phật tử Việt Nam ở xa xôi ngàn dặm mà lại có duyên hạnh ngộ với
Phật Pháp, còn một số rất nhiều con người sanh sống ngay tại Ấn Độ, nhưng hoàn
toàn không biết gì về Phật và cũng không nghe được lời giáo huấn của Ngài.
Hoàng đế Võ Tắc Thiên là vị nữ hoàng
Trung Hoa đã phải thốt lên rằng: “Bá Thiên Vạn Kiếp Nan Tao Ngộ”, trăm ngàn
muôn kiếp không dễ gì mà gặp được. Một sự kiện chân thật, vô cùng hiếm hoi quí
giá đến bực nào để có thể giác ngộ và hiểu được lời Đức Phật dạy.
ĐẠO PHẬT BÌNH ĐẲNG
VÀ TỰ DO
Đạo Phật bình đẳng và tự do chọn lựa các
pháp môn tu, miễn sao hợp với căn cơ, hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng
người. Không có sự cưỡng ép hay áp đặt hù dọa, hoặc phân biệt giai cấp chủng
tộc trong Phật giáo chân chánh. Trong đạo Phật có nhiều pháp môn tu, ba pháp
môn tu điển hình và thực hành nhiều nhất có thể kể là: Tu thiền, niệm Phật và
trì chú. Tất cả các pháp môn đi từ nhiều con đường, nhưng đều nhắm mục đích cứu
cánh Đức Phật dạy là: Giác Ngộ và Giải
Thoát. Giác Ngộ Chân Lý và Giải Thoát Sanh Tử.
1.- Tu
thiền: Hành
giả tu thiền thực tập chánh niệm, oai nghi trong sự đi, đứng, nằm, ngồi, chung
qui là trụ tâm nơi hiện tại, loại bỏ vọng tâm, thanh tịnh thân khẩu ý, phương
tiện của giới định tuệ. Điều phục tâm bình khí hòa, bình thường tâm là đạo.
2.- Niệm
Phật: Hành giả tu hướng tâm theo Phật, niệm Phật cầu vãng
sanh, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật, niệm thiện giới, loại bỏ niệm bất thiện,
niệm ma, an tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Chánh tâm biệt
niệm, tịnh tâm thì có tịnh độ.
3.- Trì chú:
Hành
giả trì chú, đi đứng nằm ngồi đều trì chú, trụ tâm nơi thần chú, loại bỏ tâm
lăn xăn vọng động, tập trung vào sự tỉnh thức không bị mê loạn, không cần phải
đếm mới là trì, phương tiện của giới định tuệ. Thanh tịnh thân, tâm sáng trí
thông.
Người thấm nhuần chánh pháp
Thanh lọc thân và tâm
Sống trong niềm hạnh phúc
Thiền định thật an lạc
Như kẻ tìm kho báu
Được lợi lớn cho mình
Hiền trí điều phục tâm
Tham ái chẳng mong cầu
Như tảng đá kiên cố
Bão tố không lay động.
ĐẠO PHẬT THỰC TẾ
VÀ CHÂN THẬT
Một Phật tử giác ngộ Phật tâm Phật tánh
chân thật sáng suốt, nhận biết giữa đúng sai, thiện ác và không bị mê lầm điên
đảo chấp chặt thành kiến, nhận sự ảo mộng là thật.
Đạo Phật làm biến đổi sự suy nghĩ vô
minh của người kiêu mạn, nóng nảy, cố chấp. Giáo lý đạo Phật giúp thấy rõ bản
chất thực tế của luật vô thường và luật nhân quả chi phối con người trong nhiều
đời kiếp sanh lão bịnh tử.
Lời dạy của Đức Phật thực tế vô cùng,
thích hợp mọi hoàn cảnh mọi trình độ và căn cơ của chúng sinh. Thân tâm bớt
loạn động, bớt phiền não, dứt nghiệp chướng, thì điều phục được tâm tham, tâm
sân, tâm si, chủ động được “thân khẩu ý”.
Giới-Định-Tuệ. Giữ gìn tịnh giới, tập tu
thiền định, phát sanh trí tuệ. Những việc khó có như rùa mù nổi lên mặt nước
gặp bọng cây, nhưng được thân người lại có nhiều phước duyên nghe được
giáo huấn Phật dạy qua kinh điển, cố gắng hành trì thì cũng sẽ thắp sáng được
ngọn đuốc trí tuệ.
1. Hiểu được kinh Phật là khó.
2. Bần cùng bố thí là khó.
3. Bỏ danh sắc rất là khó.
4. Nhục không sân là khó.
5. Quyền thế không khinh người là khó.
6. Tâm hành bình đẳng là khó.
7. Không dính cảnh thị phi là khó.
8. Gặp thiện tri thức là khó.
9. Chánh tín học đạo là khó.
10. Bỏ thân hành đạo là khó.
Hằng ngày trong cuộc sống, nơi công sở
nếu mọi người biết áp dụng Phật pháp với lòng bao dung, tâm hỷ xả, không ngã
mạn cố chấp, bình tỉnh, cư xử tốt với đồng nghiệp, bớt ganh tị đố kỵ, bớt hơn
thua, thì bớt phiền não và sẽ cải thiện được môi trường sống, xung quanh trở
nên thân thiện tốt đẹp hơn
Trong mọi tình cảnh khó khăn nào, nếu
thực hiện sự chánh niệm tỉnh thức, tâm được an thì sự thông minh sáng suốt,
năng lực về tinh thần tăng gấp bội, công nhân viên chức sẽ cống hiến được nhiều
sáng kiến tiến bộ, việc làm bền vững hoàn hảo, đem lợi ích nhiều cho bản thân,
gia đình và cho xã hội.
***
Tóm lại, Phật giáo không hứa
hẹn là có thể thỏa mãn khát vọng hạnh phúc vĩnh cửu phàm tục chứa đầy nghiệp
báo cho riêng bất cứ ai. Nhưng kết quả từ giáo lý thực tế và chân thật của đạo
Phật luôn luôn đem lại hòa bình hạnh phúc và an lạc cho mọi người. Sự bình an
hạnh phúc bền vững chỉ tìm thấy ở tâm thiền định, thanh tịnh và trí tuệ sáng
suốt của người đã đạt được giác ngộ.
Nếu như xã hội có nhiều người tu theo
lời Phật dạy, phát tâm thiện lành, lòng tràn đầy nhân ái của bậc thánh nhân và
bồ tát, cõi thiên đàng cực lạc tại thế gian, ngày an lành đêm an lành, giấc ngủ
được bình yên, thánh thiện.
Qua nhiều niên kỷ và thời đại con người
đã có dịp kiểm nghiệm vai trò tôn giáo của đạo Phật qua thực tế áp dụng trong
đời sống hằng ngày. Những vị đắc quả A La Hán sinh ra đời thời Đức Phật, bản
thân cũng tự giác ngộ được những tri kiến như Phật, để lại tam tạng kinh điển
dạy người đời sau đường lối tu chứng.
Khi liễu ngộ được sự nhiệm mầu vi diệu
của Phật Pháp, con người dĩ nhiên đã không ngớt lời tán thán Đức Thế Tôn là bậc
Thầy chỉ đường cho người chưa có phương hướng trong cuộc sống, đem đèn sáng vào
trong bóng tối. Nói một cách khác, Đức Phật là một lương y đại tài, chữa được
hằng vạn tâm bịnh khác nhau của chúng sinh.
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
***
Pháp Phật vi diệu lại cao sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy, chuyên tu học
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Thích Nữ Chân
liễu.
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM (CTLĐ TẬP 1)
ÂN OÁN CÕI ĐỜI (CTLĐ TẬP 2)
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI (CTLĐ TẬP 3)
ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
PHẬT GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG?
DÂNG SỚ CẦU AN CÚNG SAO GIẢI HẠN
LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?