CHO TRỌN NIỀM VUI TRONG MÙA VU LAN
TKN Thích Nữ Chân Liễu
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Ước rằng đóa hoa màu hồng thắm đều
cùng được cài lên áo tất cả các bạn, không phân biệt, vì Cha Mẹ của tôi và Cha
Mẹ của bạn luôn luôn hiện hữu. Đó là ý nghĩa: “Cho Trọn Niềm Vui Trong Mùa
Vu Lan”.
Đại Lễ Vu Lan hằng năm được tổ chức
trang nghiêm trong các Tự Viện khắp nơi nơi. Những tà áo đủ màu, vàng, nâu,
lam, hân hoan rộn ràng sánh vai cùng lo trang hoàng cho ngày lễ báo hiếu thiêng
liêng. Một sự kiện quan trọng hơn hết của buổi lễ, là nhắc nhở con người ý thức
sâu sắc trong tình Cha nghĩa Mẹ bảy đời, không phải chỉ Cha Mẹ một đời hiện
tiền mà thôi.
Ý nghĩa hướng về tâm từ bi của đạo
Phật, sau giây phút trang trọng của Lễ
Vu Lan, phần cài hoa hồng trên áo, cùng nghĩa với sự tôn vinh hai đấng sanh
thành, còn là “Ngày Cha Mẹ”. Sâu thẳm trong tâm của mỗi người con
chí hiếu, như có tiếng gọi thâm tình và lòng báo ân, báo hiếu kỳ diệu, nhiệm
mầu.
Văn hóa Phật giáo luôn chú trọng đến
đời sống tâm linh. Đạo đi vào đời bằng những việc thiện lành đơn giản, như hoa
hồng cài trên áo, nhưng có năng lượng hữu ích thiết thực vô cùng. Những người
con Phật thấm nhuần giáo lý từ bi của Đức Phật, thì tất cả đều nên được, có
quyền được cài đóa “Hoa Màu Hồng”. Tại sao? - Vì ai cũng có bảy đời Cha
Mẹ, dù còn sống hay đã mất, Cha Mẹ là những đóa hoa màu hồng, tươi thắm
đẹp vô ngần, và luôn được trân quí trong suốt phần đời bên các con.
Con người trên thế gian, tuy khác
nhau về màu da, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, sang hèn hay đẳng cấp cao thấp,
nhưng đều từ Cha Mẹ sanh ra. Ngày qua, năm tháng trôi đi, có người còn đủ hai
đấng sanh thành, có người mất Cha, người thì mất Mẹ, cũng có những mãnh đời bất
hạnh mồ côi cả Cha lẫn Mẹ. Tuy sống trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng không ai
vui được khi nhận hoa màu trắng, ngậm ngùi, buồn tủi, tiếc thương, hối hận. Đã
là hoa hồng, thì hãy luôn là màu hồng tươi thắm. Ý nghĩa nầy chính là tình
thương Cha Mẹ trong các con, mãi mãi không bao giờ mất.
Đạo hiếu trong Phật giáo là một nền
đạo đức chân thật, tự trong thâm tâm, không phải ở hình tướng bên ngoài. Tùy
theo hoàn cảnh và trình độ hiểu biết mà thực hiện sự hiếu dưỡng cha mẹ đúng hay
sai. Người tu theo lời Phật dạy, tin vào nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và sự
tái sanh, hiểu rằng những người sống xung quanh, nhiều đời kiếp đã từng là Cha,
là Mẹ, là anh chị em của mình.
Khi tâm phân biệt, đố kỵ, thù oán, hơn thua, tham vọng, ích kỷ, riêng tư, không còn nữa, con người sẽ có tình yêu thương bao la không có giới hạn, suy nghĩ cho người nhiều hơn cho mình, thì tâm đã gần giống Tâm Chư Phật lắm rồi.
Trong kinh Vu Lan Bồn, với cử chỉ hành động đầy lòng từ bi khiêm tốn và đức độ
bình đẳng, tình thương cảm rất tế nhị của Đức Phật được diễn tả trong đoạn kinh
sau đây:
Đáo bán lộ rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt
hồng
Đức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống
xương
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ phụ ba phương bốn
loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: Trong các môn đồ
Ông là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt
hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ sanh ta
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn
đây.
Khi đọc tụng đoạn kinh trên, lắng tâm suy ngẫm cho thấy một hình ảnh chân thật, cao quí trong tâm lý hoằng pháp. Đức Phật đã chỉ dạy chúng sinh phá đi tâm ích kỷ, tâm chấp tướng, tâm phân biệt nặng nề, nên trải lòng thương tất cả chúng sanh với tâm bình đẳng tuyệt đối, không có nhân ngã. Dù còn sống hay đã thành xương trắng, những người sống trong luân hồi lục đạo nhiều đời kiếp, từng là thân bằng quyến thuộc với nhau.
Thông thường, con người dễ cảm nhận
niềm vui riêng, bất chợt, vội cảm ơn hoa màu hồng trên áo, vì nhìn thấy có
người phải tủi phận nhận hoa màu trắng. Tuy đó là niềm vui vi tế, không đáng
trách, nhưng tâm từ bi chưa vẹn toàn. Tâm vị tha rộng rãi hơn, nên tự nhủ lòng
rằng: “Ước rằng hoa màu hồng cùng cài lên áo tôi, và áo bạn, vì Cha Mẹ của
chúng ta luôn luôn hiện hữu, cho niềm vui được trọn vẹn trong ngày Lễ Cha Mẹ
thiêng liêng nhiều ý nghĩa”.
Có phải sau đó, niềm vui sẽ tăng lên
gấp bội, một bông màu hồng cho anh, một bông màu hồng cho chị, một bông màu hồng
cho em và một bông màu hồng cho tất cả những ai cũng có Cha Mẹ.
Bất luận người tu - xuất gia hay tại
gia - đều có ý thức trách nhiệm, trong sự đền đáp ơn sanh thành dưỡng dục của
Cha Mẹ, không chỉ một ngày Lễ Vu Lan mà thôi, mà ở mọi thời khắc, mọi hoàn cảnh
đều thấy được cơ hội để báo hiếu. Sự an lạc của Cha Mẹ khi còn hiện tiền,
hay đã khuất, đều có sự chiêu cảm cần thiết từ các con. Phẩm hạnh đạo đức
các con càng cao, là niềm hạnh phúc, là quà tặng tâm linh cho Cha Mẹ, không vật
chất nào có thể sánh bằng.
Đạo hiếu hạnh sáng suốt của người tu
học Phật Pháp, có thể cảm hóa được Cha Mẹ hướng về Tam Bảo, học hiểu từ giáo lý
Đức Phật sẽ giúp Cha Mẹ bỏ ác làm lành. Tâm chánh tín, chánh kiến và phước đức
ngày càng thăng tiến, kết quả đem đến an lạc hạnh phúc hiện tiền, khi xả
báo thân được giải thoát về cảnh giới an lành tốt đẹp. Cũng vậy, đối với
người xung quanh, kính trên nhường dưới, hướng dẫn qui y Tam Bảo, khuyên làm
lành hướng thiện, là cách đền ơn Cha Mẹ tốt nhất.
Đức Phật dạy: “Những ai đền ơn Cha Mẹ bằng cách nuôi dưỡng, dâng cúng của cải vật chất, tiền bạc, thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn Cha Mẹ. Nhưng này các Tỳ Kheo, những ai đối với Cha Mẹ chưa sống trong thiện lành, thì hướng dẫn qui y trong chánh pháp, trau dồi đức hạnh chánh trực; đối với Cha Mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí; đối với cha mẹ còn tà kiến, thì khuyến khích vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho Mẹ và Cha”.
(Tăng Chi bộ Kinh I. 75)
Đối với Cha Mẹ, món ăn tinh thần dâng lên, cũng không thể không lựa chọn cẩn thận. Người có tuổi, sức khỏe thường nay đau mai yếu, hay buồn giận, dễ hờn tủi, nguồn vui chỉ mong sự săn sóc nuông chìu và hiểu biết của các con, đừng để sự cô đơn, nhớ con cháu giết lần mòn hai đấng sanh thành.
Cơ hội săn sóc Cha Mẹ là lúc tu thực
hành nhiều nhất. Kiên nhẫn, bao dung, vị tha đem lại nguồn vui thanh thản cho
hai đấng sanh thành. Khi chúng ta còn nhỏ Cha Mẹ lúc nào cũng hy sinh, bảo bọc,
che chở và mong muốn tạo hạnh phúc cho các con. Nên dụng tâm, dành nhiều thì
giờ thăm hỏi, chăm sóc, viếng thăm thường xuyên, đó mới chính là liều thuốc bổ
giúp Cha Mẹ sống thọ, một cách báo hiếu hữu hiệu và công dụng nhất.
Ân Cha Mẹ ví như núi cao, biển rộng, sông sâu, vì có Cha Mẹ mới có thân ta. Phận làm con, tu tập có được chút phước đức, công đức nào, nên hồi hướng cho Cha Mẹ. Sau đó, tạo duyên cho Cha Mẹ biết qui y Tam Bảo, đó là đền ân Cha Mẹ. Vì vậy, thương và quí kính Cha Mẹ nhiều chừng nào, chúng ta phải ráng tu nhiều chừng ấy. Nhờ phước đức cộng nghiệp của những người con chí hiếu mà Cha Mẹ mất đi, đời sau sanh ra gặp Phật pháp, biết sự tu hành. Cha Mẹ còn hiện tiền thì gặp được minh sư khai ngộ, hiểu đạo, tiến tu.
Mong ước rằng Lễ Vu Lan từ nay về
sau, sẽ là một ngày vui thật trọn vẹn, vì tất cả người con hướng về bảy đời Cha
Mẹ, cùng một lòng hiếu hạnh báo ân. Cài trên áo một bông hoa màu hồng, giống y
như nhau, không phân biệt, vì ai ai cũng có Cha, có Mẹ, để thương yêu và đền
ơn. Tiềm năng vô tận của lòng từ bi ai cũng có, chỉ cần xử dụng phù hợp, khéo
léo một chút thôi, thì đã có “Trọn Niềm Vui Trong Mùa Vu Lan” đầy đủ ý
nghĩa nhất.
Nguyện cho bảy kiếp
Cha Mẹ chúng con,
đượm nhuần mưa pháp.
Khi còn tại thế,
thân tâm an ổn,
phát nguyện tu trì.
Khi đã qua đời,
xa lìa ác đạo,
chóng thành Phật quả.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Câu chuyện cuộc sống
HẠ MÌNH
Ngài Đạt Lai Lạt Ma từng nói: Cây lúa nào hạt non hạt lép thì nó đứng thẳng vươn cao.Còn những cây lúa nặng trĩu hạt luôn oằn mình xuống dưới thấp.
Cái Tôi của ai nhỏ bé thì tâm lượng người đó mênh mông!
ĐÊM VÀ NGÀY
Một vị thiền sư hỏi các đệ tử của mình:” Trò nào có thể cho ta biết, đêm kết thúc khi nào, ngày bắt đầu lúc nào?”.
Một đệ tử buột miệng nói:” Ở một cự ly nhất định, vào lúc có thể phân biệt được con vật ở đằng xa là con cừu hay con chó, đó là lúc ngày bắt đầu!”.
– Không đúng! – Thiền sư nói.
– Vào lúc có thể từ đằng xa phân biệt được một cây là cây không có hoa, hay là cây đào là lúc ngày bắt đầu – Một đệ tử khác vội vàng nói tiếp.
– Cũng không đúng! – Thiền sư đã có chút bực bội.
– Vậy thì thưa thầy, ngày bắt đầu vào lúc nào? – Các đệ tử đồng thanh hỏi.
Thiền sư nghiêm túc trả lời:” Chỉ vào lúc các con nhìn rõ khuôn mặt của người đối diện, nhận ra họ là người anh em của mình thì mới là lúc ngày đã đến. Nếu không, bất kỳ lúc nào trong ngày đối với các con cũng chỉ là đêm đen”.
BỐ THÍ
Đang ăn phở với tôi trong quán. Một bà cụ già hành khất ốm nhom bước đến xin bố thí. Nó móc túi lấy tờ 5 ngàn định cho, xong nghĩ sao hắn nhét lại vào túi và nói với cụ già :
-Cụ đã ăn gì chưa ? Con mời cụ tô phở nhé !?
Cụ già gật đầu, hắn mời bà cụ ngồi và gọi một tô lớn trị giá 50 ngàn cho cụ .
Tôi hỏi :
-Sao mày không cho tiền bà cụ 50 ngàn phải hơn không?
Hắn vẫn đang cắm cúi húp phở, không ngẩng đầu lên trả lời tôi :
-Bà ấy có thể xin được một ngày nhiều hoặc ít hơn 50 ngàn từ nhiều người . Nhưng bà ấy sẽ không bao giờ biết được hương vị thơm ngon của một tô phở trị giá 50 ngàn , trong suốt cuộc đời lang bạt còn lại của bà ấy !?…
Tôi lặng lẽ không nói thêm gì ?…
BÌNH AN VÔ SỰ
Ba người đi ra khỏi cửa, một người mang dù, người kia mang gậy, người còn lại đi tay không. Khi trở về, người cầm dù ướt đẫm, người mang gậy thì ngã bị thương, người thứ ba không mang gì thì lại chẳng hề hấn gì. Vốn dĩ lúc trời mưa, người có chiếc dù mạnh dạn bước đi, lại bị mưa dội vào; lúc đi đường bùn trơn trượt, người mang gậy liều lĩnh xông lên nên thường xuyên té ngã; người cái gì cũng không có, lúc mưa to thì tránh đi, đường không tốt thì cẩn thận bước, ngược lại nhờ thế mà bình an vô sự.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma từng nói: Cây lúa nào hạt non hạt lép thì nó đứng thẳng vươn cao.Còn những cây lúa nặng trĩu hạt luôn oằn mình xuống dưới thấp.
Cái Tôi của ai nhỏ bé thì tâm lượng người đó mênh mông!
ĐÊM VÀ NGÀY
Một vị thiền sư hỏi các đệ tử của mình:” Trò nào có thể cho ta biết, đêm kết thúc khi nào, ngày bắt đầu lúc nào?”.
Một đệ tử buột miệng nói:” Ở một cự ly nhất định, vào lúc có thể phân biệt được con vật ở đằng xa là con cừu hay con chó, đó là lúc ngày bắt đầu!”.
– Không đúng! – Thiền sư nói.
– Vào lúc có thể từ đằng xa phân biệt được một cây là cây không có hoa, hay là cây đào là lúc ngày bắt đầu – Một đệ tử khác vội vàng nói tiếp.
– Cũng không đúng! – Thiền sư đã có chút bực bội.
– Vậy thì thưa thầy, ngày bắt đầu vào lúc nào? – Các đệ tử đồng thanh hỏi.
Thiền sư nghiêm túc trả lời:” Chỉ vào lúc các con nhìn rõ khuôn mặt của người đối diện, nhận ra họ là người anh em của mình thì mới là lúc ngày đã đến. Nếu không, bất kỳ lúc nào trong ngày đối với các con cũng chỉ là đêm đen”.
BỐ THÍ
Đang ăn phở với tôi trong quán. Một bà cụ già hành khất ốm nhom bước đến xin bố thí. Nó móc túi lấy tờ 5 ngàn định cho, xong nghĩ sao hắn nhét lại vào túi và nói với cụ già :
-Cụ đã ăn gì chưa ? Con mời cụ tô phở nhé !?
Cụ già gật đầu, hắn mời bà cụ ngồi và gọi một tô lớn trị giá 50 ngàn cho cụ .
Tôi hỏi :
-Sao mày không cho tiền bà cụ 50 ngàn phải hơn không?
Hắn vẫn đang cắm cúi húp phở, không ngẩng đầu lên trả lời tôi :
-Bà ấy có thể xin được một ngày nhiều hoặc ít hơn 50 ngàn từ nhiều người . Nhưng bà ấy sẽ không bao giờ biết được hương vị thơm ngon của một tô phở trị giá 50 ngàn , trong suốt cuộc đời lang bạt còn lại của bà ấy !?…
Tôi lặng lẽ không nói thêm gì ?…
BÌNH AN VÔ SỰ
Ba người đi ra khỏi cửa, một người mang dù, người kia mang gậy, người còn lại đi tay không. Khi trở về, người cầm dù ướt đẫm, người mang gậy thì ngã bị thương, người thứ ba không mang gì thì lại chẳng hề hấn gì. Vốn dĩ lúc trời mưa, người có chiếc dù mạnh dạn bước đi, lại bị mưa dội vào; lúc đi đường bùn trơn trượt, người mang gậy liều lĩnh xông lên nên thường xuyên té ngã; người cái gì cũng không có, lúc mưa to thì tránh đi, đường không tốt thì cẩn thận bước, ngược lại nhờ thế mà bình an vô sự.
Sống Hạnh Phúc, Chết Bình An
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Xưa kia, khi còn
ở trong nước, đi ngang qua một địa phương, có người tự hỏi tại sao có quá nhiều
nhà thờ, khoảng vài cây số lại có một nhà thờ trong khi dân chúng nghèo khổ?
Bây giờ thì chùa
chiền cũng mọc lên rất nhiều, không kém gì các nhà thờ xưa kia, mà có vẻ đồ sộ
hơn, còn dân chúng nghèo thì vẫn nghèo.
Cớ sao các vị tu
sĩ không nhớ lại là khi đi tu, trong tâm chỉ xin Đức Chúa cho được hằng ngày đủ
dùng, Đức Phật cũng dạy con người phải biết tri túc để sống đời an vui hạnh
phúc.
Tri túc chi nhơn,
tuy ngọa địa thượng, du vi an lạc.
Nghĩa là: Người
nào biết đủ, tuy nằm trên đất, cũng thấy yên vui.
Khi đủ sống rồi
thì người tu phải làm gì để giúp đỡ người nghèo khổ, người cầu học chánh pháp,
người muốn giác ngộ và giải thoát.
Như thế mới thể
hiện được lời dạy của các Đấng Tối Cao về lòng bác ái, tâm từ bi, thương người
như thể thương thân.
Ngày xưa Đức
Phật, đã từ bỏ ngôi báu, cung vàng điện ngọc, với một bát, một cà sa, đi từng
nhà này qua nhà khác để khất thực:
«Nhất bát thiên
gia phạn. Cô thân vạn lý du»
(Một bát ngàn nhà
xin cơm.
Đơn thân muôn dặm
độc hành).
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đây chính là điểm quan trọng nhất mà các tu sĩ nhất định nên làm,
phải làm.
Hình ảnh Đức Phật
đi khất thực như thế đã cho chúng ta bài pháp thâm thúy nơi thân giáo của Ngài.
Vài người chưa
kịp hiểu ý nghĩa cao thượng về pháp khất thực đã vội có tư tưởng và lời nói
không hay.
Mỗi tu sĩ Phật
giáo, nếu có cái nhìn sâu sắc, thì chính mỗi vị là một ngôi chùa di động
vì trong họ có đủ
Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng.
Phật chính là tâm sáng suốt.
Pháp chính là tâm chân chánh.
Tăng chính là tâm thanh tịnh.
Ba tâm đó nói
chung mọi người đều có - không phân biệt tôn giáo - người tu sĩ cũng như người
cư sĩ đều có.
Họ chỉ cần tu
tập, xây dựng vững chắc ngôi chùa trong bản thân thì ngôi chùa bên ngoài cũng
có cơ hội hình thành.
Nơi đâu cũng là
đạo tràng, cũng là thiên đàng, cũng là niết bàn.
Ngôi chùa bên
ngoài chỉ là phương tiện để hoằng pháp, chứ không phải là cứu cánh của người
tu.
Người tu - dù là
tu sĩ hay cư sĩ - đi đến chùa là để học hiểu chánh pháp, đặng áp dụng trong đời
sống thức tế hàng ngày, chứ không phải để cầu nguyện suông được vãng sanh cực
lạc, mà chẳng tìm học và áp dụng những điều đức Phật dạy.
Do đó, người tu
sĩ nhận của cúng dường, bố thí từ nơi bá tánh, phải luôn luôn nhớ bổn phận tự
tu, tự độ chính bản thân và giúp mọi người biết cách tu đúng chánh pháp, gọi là
độ người, độ tha nhân.
Người xưa có nói
tu thân rồi mới tề gia.
Một tu sĩ tự độ
rồi mới độ tha, phải là một vị thầy sáng suốt, chân chánh, thanh tịnh, phải là
một vị minh sư, mới có thể đem đạo vào đời, giúp đời giảm thiểu phiền não khổ
đau, gieo tình thương, an lạc, hạnh phúc vào vườn tâm mọi giới: «Minh sư hưng
đạo».
Tu sĩ còn là
người lèo lái con thuyền bát nhã, cứu người thoát khổ, độ người thoát khỏi trầm
luân, đưa đến bờ giác.
Người tu - tại
gia hay xuất gia - cần nắm vững chánh pháp, để tự độ thân và độ tha nhân,
không lầm tà
pháp, không chọn tà sư và không lạc vào tà đạo.
Tu sĩ thời nay
vẫn còn trầm luân trong biển danh lợi, đem đời vào đạo, đem văn nghệ vào sân
chùa,
đem hình ảnh lố
lăng y áo sặc sở, ghế ngự như ngai vàng vào ngay chánh điện.
Tu sĩ thời nay
không lo nghiên tầm học hiểu chánh pháp, để giảng giải thuyết pháp,
hay viết bài để
truyền bá những lời dạy thực tế của chư Phật, chư Tổ.
Họ chỉ trau chuốt
giọng đọc, giọng tán tụng, cho du dương, trầm bổng, ê ê a a, lóc cóc leng
cheng, tùng tùng xèng xèng, để hát hò như ca sĩ, ngay nơi chánh điện.
Một lời giảng dạy
chánh pháp không nói nổi,
nhưng tu sĩ thời
nay thao thao bất tuyệt khi cầm micro quảng bá quyên tiền xây thêm chùa lớn,
xây phòng ở nguy nga cho vị trụ trì.
Tệ hơn nữa các tu
sĩ thời nay còn dám gạt gẫm bá tánh qua các tà pháp mê tín dị đoan
như: chai nước
trì chú trị bá bệnh, lạy tượng Phật ngọc cầu gì được nấy, khai thị vong nhập,
cúng sao giải hạn, tổ chức trai đàn bạt độ cứu hộ thai nhi, vãng sanh đủ loại
cô hồn, vớt vong trên sông trên biển như vớt bèo.
Tu sĩ thời nay
còn dám mang các bộ mặt ma, các mặt nạ, các nick name, xuất hiện trên các diễn
đàn xỉa xói, dè bĩu, mạ lỵ, phỉ báng người khác,
dù người đó đang
cố gắng truyền bá những điều hay, lẽ phải, những danh ngôn tư tưởng đẹp, những
lời dạy tu hành trong nhà Phật.
Nếu một tu sĩ
không lo tu tập mà chỉ đem lòng nghĩ đến chùa to, mơ tưởng tượng lớn, chê bai
chùa nhỏ, xa rời tâm bồ đề ban đầu, chìm đắm trong dục lạc, tham vọng.
Tu sĩ thời nay
giảng dạy điều này, nhưng thực hành một điều khác, thân giáo không đi đôi với
khẩu giáo.
Tu sĩ thời nay
thích tranh danh đoạt lợi, thích ngồi ghế lãnh đạo, ăn trên ngồi trước, mâm cao
cổ đầy, kẻ hầu người hạ.
Như thế chẳng hóa
ra lãng phí cả cuộc đời xuất gia tu hành hay sao?
Tu hành đâu tính
tuổi già tuổi trẻ, đâu đếm mấy hủ tương chao để tranh hơn thua, tranh địa vị,
chức vụ, ghế ngồi cao thấp.
Tu hành cốt tủy
nơi tuệ giác. Đức Phật ngày xưa giác ngộ ngay cội bồ đề năm 35 tuổi.
Các vị tu sĩ khác
dù già nua cũng chẳng giác ngộ, bỏ mạng nơi khổ hạnh lâm.
Tu sĩ thời nay
đua nhau lập tu viện to lớn, nguy nga như cung điện, tổ chức các loại lễ hội
hàng năm, bày trò mê tín, để phô trương và thu tiền bá tánh.
Dù 100 tuổi các
lão tăng đó có ích lợi chi cho bá tánh, cho thiền môn, cho đạo pháp?
Các tu sĩ thời
nay hành xử giống như ngụ ý của câu châm biếm Pháp «Fais ce que je dis, pas ce
que je fais»
(Hãy làm những gì
tôi nói, không phải những gì tôi làm).
Trong đạo mà lời nói không đi đôi với việc làm cũng gây rất nhiều thất vọng, hoang mang
cho
những người có niềm tin nơi tôn giáo của mình!
Tuy nhiên, con
đường người tu đi mà thấy đúng, việc người tu làm mà thấy mang lại an vui, hạnh
phúc cho bản thân và cho người khác, được khen cũng tốt, bị chê không phiền.
Người đời thường
nói: chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ đi (Le chien aboie, la caravane passe).
Nhưng người biết
tu tâm dưỡng tánh nên xem những người tạo thiện duyên (giúp đỡ phương tiện vật
chất hay tinh thần)
và những người
tạo nghịch duyên (phê phán phỉ báng ngăn đường cản bước)
đều là các bậc
thiện hữu tri thức, tất cả đều giúp mình rèn luyện chữ nhẫn và thử thách tâm
kiên cố.
Được như vậy,
con người sống hạnh phúc, chết bình an,
không cần theo
tôn giáo nào, cũng chẳng cần cầu nguyện thánh thần thiên địa chi cả.
Con người biết tự
làm chủ bản thân trước sóng gió cuộc đời ví như hòn đảo tự đứng vững trước
phong ba bão táp vậy. []
Chuyện
gì rồi cũng qua
Hơn
thua phiền não mà
Biết
tu tâm dưỡng tánh
Không
còn người với ta
Chuyện
gì rồi cũng xong
Phê
phán thêm phiền lòng
Biết
tu tâm dưỡng tánh
Muôn
sự thảy đều không
&
Nên
học hạnh của đất
Nhận
chịu của thế gian
Thơm
tho và hôi thúi
Hóa
thành đóa hoa tươi
Người
đời tặng tên đạn
Phê
phán và phỉ báng
Biết
tu tâm dưỡng tánh
Hóa
thành đóa hoa tươi
Hơi ấm của cha
Ngày tôi
lên hai tuổi mẹ đã vĩnh viễn đi xa. Ký ức về mẹ chỉ qua lời kể của ba. Mới ba
mươi hai tuổi, ba tôi phải một mình nuôi ba đứa con ăn học. Và ông cô đơn đi
suốt quãng đời còn lại vì chúng tôi...
Đồng
lương của một giáo viên ngày ấy không đủ xoay sở cho chúng tôi ăn no mặc ấm,
buộc ba tôi phải lao vào bao nhiêu nghề khác ngoài giờ đi dạy, như: thợ mộc,
phụ hồ...
Suốt
những năm mẫu giáo đến tiểu học, vì thương tôi thiếu hơi mẹ nên hôm nào về đến
nhà ba cũng đều pha cho tôi bình sữa. Hồi đó, tôi cứ hỏi ba: “Mẹ đâu?”. Ba xoa
đầu tôi rồi nhìn lên bàn thờ bảo: “Mẹ con đó!”. Lần nào, tôi cũng khóc và nẩy
lên bắt ba phải đi tìm mẹ để tôi được có mẹ như các bạn khác. Ông gật đầu hứa
rồi ôm tôi vào lòng hát: “Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lai chịu lời đắng
cay...” Tôi vẫn khóc và giận dỗi, chỉ đến lúc anh hai hét lên đòi đánh tôi mới
chịu im. Chỉ khi lên cấp hai, tôi mới hiểu ra mình mãi mãi không có mẹ như bao
bạn khác. Mẹ đi xa và sẽ không bao giờ trở về. Tôi không còn khóc đòi mẹ như lúc
còn bé nhưng tiếng “Mẹ” sao cứ lúc xa lúc gần trong tâm thức.
Hồi đó,
mỗi anh em chỉ có hai bộ quần áo đi học nhưng đều được ba giặt ủi phẳng phiu.
Những ngày mùa đông, sáng nào, ba cũng pha sẳn nước nóng để chúng tôi thức dậy
đánh răng, rửa mặt. Trời mưa, nhà dột trước dột sau, ba bảo anh em chúng tôi
lên tấm phản khô ráo để ngủ còn ba thức để tát nước. Nửa đêm khi chợt thức
giấc, tôi đều thấy mình nằm gọn trong vòng tay ba, hơi ấm của ba làm tôi và hai
anh trai ngủ ngon lành, quên đi cơn mưa như trút nước, quên đi cái lạnh giá
xung quanh. Vậy mà, tôi vô tư lắm, cứ mong mưa. Ngày nào mưa lớn tôi reo mừng
hớn hở lvì được xem ba tát nước, có khi còn bắt được cá nữa. Nhớ nhất và vui
nhất là những ngày chủ nhật, ba không nấu cơm, bốn cha con nhảy lên xe buýt ra
Sài Gòn xem phim, rồi vào Thảo Cầm Viên đi xem voi và chơi đu quay. Lúc về, ba
mua con vịt quay và mấy ổ bánh mì về nhà làm “đại tiệc”.
Cuộc sống
cứ thiếu trước hụt sau, vậy mà ba vẫn thu xếp để cho anh em tôi không thua bạn
kém bè, chỉ có ba là chịu đủ thiệt thòi. Ngày ấy chúng tôi còn quá bé để hiểu
những hy sinh của ba…Dưới mắt mọi người, kể cả thầy cô và các bạn, không ai
biết chúng tôi là những đứa bé mồ côi mẹ, vẫn thấy chúng tôi tươm tất và có
cuộc sống đầy đủ, như được bàn tay mẹ chăm lo chu đáo. Cứ thế, ba anh em trai
tôi cứ lớn lên vô tư, ngày hai buổi đến trường vui chơi cùng chúng bạn mà không
hề biết nỗi nhọc nhằn của người vừa làm cha, vừa làm mẹ...
hương con
rể một mình lầm lũi nuôi con, mỗi lần ở quê lên, bà ngoại tôi đều khuyên ba lấy
vợ. Thậm chí có lần ngoại còn dắt theo một cô gái ở quê do ngoại “chấm”, nhưng
ba vẫn lắc đầu...
Giờ đây,
ba anh em tôi đều nối nghiệp ba làm nghề dạy học. Cuộc sống ngày nay đã đầy đủ
hơn nhưng sao tôi vẫn thèm những món ăn ngày bé thơ do ba nấu, vẫn thèm con vịt
quay thuở nào, thèm được nhảy lên xe buýt đi xem phim với ba...
Tôi được
làm cha khi cũng vừa tròn ba mươi hai tuổi. Cái tuổi ngày xưa ba tôi một mình
nuôi ba đứa con. Bồng bé Thuỳ Dương - con gái tôi - trên tay mà tôi cảm thấy
lúng túng vì khó quá, sợ không biết cách sẽ làm đau con. Con bé thì cứ say sưa
ngủ trong tay tôi, lâu lâu lại nhoẻn miệng cười đáng yêu.
Bà ngoại
ở quê xa, bà nội không còn, vợ chồng tôi phải mua hàng đống sách về nuôi dạy
con để tham khảo. Mỗi khi con ấm đầu, sổ mũi, ọc sữa... chúng tôi quýnh cả lên
và thay nhau gọi ba để hỏi. Bé con mới ba tháng tuổi mà tôi đã nếm đủ bao hạnh
phúc lẫn nhọc nhằn của bậc sinh thành. Nhìn ông nội chăm sóc cháu thành thạo,
tôi cảm thấy khóe mắt cay cay khi nghĩ về ngày xưa một mình ba đã vất vả ra sao
để lo cho ba đứa con. Vậy mà cho đến khi đã trưởng thành, chưa bao giờ tôi nghe
ba một tiếng thở than... Người ta bảo: “Có làm cha mẹ mới hiểu và biết thương
cha mẹ mình nhiều hơn” là thế.
Bé con
ngủ ngon trong tay tôi. Con gái ơi! Con gái có cảm nhận được hơi ấm của ba như
ngày xưa mỗi lần ba cuộn tròn trong tay nội ngủ ngon lành?
Giờ đây,
mỗi lần cất tiếng ru con, tôi lại thích bắt đầu bằng câu hát ngày xưa của ba
:“Gió đưa cây cải về trời”…
(Sưu tầm - Nguồn: Internet)
LỜI HAY Ý ĐẸP
-Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp.
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
- Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp.
- Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
- Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn
đẹp.
- Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn
ngữ đẹp.
- Không khởi tà niệm, luôn chánh trực, đó là ý đẹp.
- Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
- Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
- Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối
thắng.
“Lời khẩn cầu” của chim bị phóng sinh
Đói,
khát và… chờ chết!
Thực trạng bi đát
ấy hiện diện rõ bên trong các lồng chim phóng sinh được bày bán tại khắp các
ngôi chùa có đông khách đến dâng hương. Tại Tổ đình Hội Sơn, ngôi cổ tự có kiến
trúc đậm chất phương Nam tọa lạc tại phường Long Bình (quận 9), ngay khi vừa bước
vào cổng chính dẫn vào chánh điện, khách trẩy hội lập tức lọt vào vòng quay của
đội quân bán chim phóng sanh với hơn chục chiếc lồng lổn ngổn những chú chim
xác xơ lông cánh. Vỗ vỗ tay vào chiếc lồng đặc đen chim trời, trong đó có nhiều
con đã "nhắm mắt, xụi cánh" với đôi chân bé xíu, khẳng khiu chĩa
thẳng lên trên, bà chủ lồng chim sở hữu gương mặt tô son trét phấn đậm nét cho
biết "trong lồng có hơn hai trăm con, chủ yếu là chim manh manh và chim
sẻ".
Nhìn các lồng bán chim phóng sanh ở Tổ đình Hội Sơn, mới thấy có
trên 80% số lồng có sự hiện diện của những chú chim bạc mệnh chết thẳng cẳng.
Nhiều con ngắc ngứ, đầu cánh rũ rượi đang đậu trên cành cây án ngang chiếc lồng
bị bầy đàn giành chỗ, giẫm đạp thấy mà thương. Chim chết nhiều quá nên một người
đàn ông mở cửa lồng thọc tay vào trong lôi ra bỏ vào chiếc túi nilông màu đen.
Ông này giải thích "tụi nó chết do đói, khát, mệt".
- Sao chú không cho chim ăn, uống để chúng khỏi bị đứt bóng?
- Hơi sức đâu mà làm chuyện đó! Cái giống chim phóng sanh này ngộ lắm, khi bị hốt vào lồng dẫu có cho ăn, cho uống gì chúng cũng chết thôi! Ngó mấy con ngáp ngáp vậy chứ mở cửa lồng là chúng bay vù vù đó!
Nhưng sự thực không như biện giải của người đàn ông nọ. Kịch liệt bài bác chuyện "thả chim phóng sanh tích đức", chị Mai Hương, một phật tử thường xuyên ghé chùa, lắc đầu: "Chim thú cũng như con người, đói khát mà được cho ăn uống thì sao có chuyện chẳng màng tới. Dân bán chim phóng sanh nhiều người ngộ lắm, họ cứ nghĩ trước sau gì cũng bán hết nên không để tâm đến chuyện đói khát của chim. Những con chim chết được họ bỏ vào bọc bán lại cho những quán ăn có trương bảng chim sẻ nấu cháo đậu xanh, nướng muối ớt đấy". Chị Hương cám cảnh: "Phục vụ cho mục đích tích đức của thiên hạ mà số phận của những con chim phóng sanh bi đát lắm, chúng bị bỏ mặc đói khát để chờ chết".
Sinh
- tử mặc bay
Không chỉ Tổ đình
Hội Sơn mà tại nhiều ngôi chùa khác an tọa trên đất Sài thành như chùa Châu Đốc
III (quận 9), chùa Việt Nam Quốc Tự (quận 10), chùa Xá Lợi, Tổ đình Vĩnh Nghiêm
(quận 3), chùa Phật cô đơn ở Bình Chánh…, số phận chết thảm của những chú chim
phóng sinh cũng được thể hiện rõ trong những chiếc lồng bọc lưới mắt cáo với
con xác xơ lông cánh, con chỏng chân cứng đơ, con ngắc ngứ chờ chết… Nhưng
khách ghé chùa không quan tâm đến điều đó. Họ nhìn những con chim chết thảm tặc
lưỡi ra vẻ xót thương và sau đó dồn tâm trí vào việc mặc cả, hối người bán gom
chim vào chiếc lồng nhỏ đặng phóng sanh tích phước.
Tại chùa Xá Lợi, một bà luống tuổi sau một hồi mặc cả "một
chục sáu chục" (10 con chim giá 60.000 đồng) đã được người bán là một
thanh niên thọc tay vào lồng tóm 20 chú chim cho vào chiếc lồng nhỏ. Bà nọ cầm
chiếc lồng lên xốc xốc đặng kiểm tra chất lượng mẻ "hàng" rồi bảo anh
nọ đổi 4 chú chim toàn thân đầy vết trầy trông ốm yếu bằng những chú chim mạnh
khỏe.
Thấy vậy một bà khách xỏ xiên:
"Mấy
con ốm yếu vậy mới thực sự cần phóng sanh, đổi làm gì?".
Bà nọ đanh giọng
đốp lại:
"Chim mạnh
khỏe thì thả chứ ốm yếu mà tháo cửa cho sổ lồng thì chúng cũng ngủm củ tỏi
thôi. Thà để nó chết khuất mắt chứ chết do mình tiếp tay là tội ác đó"
(???).
Tại chùa Châu
Đốc III, hoan hỉ mỗi người rinh một lồng chim, cặp vợ chồng nọ quỳ trước chiếc
lư hương khổng lồ, 2 tay dâng cao lồng chim rồi lạy liên tục khiến lũ chim nháo
nhào kêu la loạn xạ. Hành xác lũ chim xong, cả hai đến công đoạn mở cửa lồng.
Chừng như do bị choáng nên có vài chú chim lao thẳng vào chiếc lư nhang đang
tỏa khói hương nghi ngút, khiến mùi lông chim cháy tỏa khét lẹt. Nhiều khách lễ
chùa thấy cảnh ấy bảo "sang chỗ khác mà thả" thì anh chồng gân cổ:
"Sống có phần, chết tại số. Con nào mạng tận vận hết thì lủi vô thôi
mà!".
Sau đó cũng
tại khu vực có chiếc lư hương khổng lồ ấy, chừng bực mình vì cửa lồng mở nãy
giờ mà không chịu bay nên chú chim sẻ đuối sức bị chị nọ thọc tay vào lôi ra
rồi tung ném lên trời. Chú chim tội nghiệp đập đập cánh vài cái rồi rơi tõm
xuống sông. Chẳng động chút lòng từ, chị nọ oán trách: "Chỉ mỗi việc
bay mà cũng không nên thân, chết là phải" (???).
Tích phước hay
tiêu diệt chim?
Trái với suy
nghĩ của nhiều thiện nam tín nữ "phóng sanh giúp ích cho môi trường",
hiện tượng ngày càng nhiều người đổ xô vào trào lưu mua chim thả tạo phước càng
khiến hệ sinh thái bị xâm phạm nghiêm trọng. Để có nguồn chim phóng sanh ấy,
đội quân thợ săn ngày lại ngày giăng bẫy ở khắp mọi nơi.
"Điều đáng quan tâm là sau khi được thả ra, nếu không bị chết
vì kiệt sức thì những chú chim phóng sanh ấy lại bị dính bẫy và bị bỏ đói, khát
thảm thương. Vòng quay đầy bi kịch ấy sẽ tái diễn đến khi nào lũ chim trở
thành… chim thiên cổ”. Sau trăn trở trên, chị Thu Hồng, phật tử chùa Xá Lợi,
bày tỏ quan điểm: "Hầu như những người mua chim phóng sinh đều biết rõ
những thảm cảnh sẽ đến với bầy chim mà họ phóng sanh nhưng tham vọng tích đức,
cầu phước lộc đã lấn át lý trí, lòng trắc ẩn trong họ. Biết nhưng vì lợi riêng
mà vẫn lao vào và gián tiếp gây thương tổn cho chim trời theo tôi là đáng phải
lên án"
Thành Dũng (Theo CAND Online)
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM (CTLĐ TẬP 1)
ÂN OÁN CÕI ĐỜI (CTLĐ TẬP 2)
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI (CTLĐ TẬP 3)
ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
PHẬT GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG?
DÂNG SỚ CẦU AN CÚNG SAO GIẢI HẠN
LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?