BÁT CHÁNH ĐẠO
(Cư Trần Lạc Đạo
1)
Tỳ
Khưu Thích Chân Tuệ
Trong cuộc đời đau khổ
trên thế gian này, khi gặp những việc tai biến, những sự bất trắc, những chuyện
bất như ý, con người thường có khuynh hướng cầu nguyện van xin tổ tiên ông bà, thánh
thần thiên địa, ngọc hoàng thượng đế, Bồ Tát Phật Tổ, từ bi gia hộ, thương xót
cứu giúp, tai qua nạn khỏi, cho được bình yên. Nhưng thực ra, chúng ta ai ai
cũng hiểu rằng việc cầu nguyện chỉ có tác dụng giúp cho con người được an tâm
trong giây phút cầu nguyện đó thôi. Có mấy ai cầu gì được nấy? Cầu xin không
được đáp ứng, chẳng lẽ thiên địa không bác ái, Bồ Tát không từ bi? Còn Ðức Phật
cứu độ chúng sanh bằng cách nào, như thế nào?
Ðạo Phật không chỉ dạy
cầu nguyện như là cứu kính. Theo quan niệm của Phật giáo, cầu nguyện được xem
như những lời chúc lành, những mong muốn thiết tha, với mục đích vị tha bất vị
kỷ, vì người không vì mình, một cách phát tâm đại từ bi. Chẳng hạn như chúng ta
cầu nguyện cho quốc thới dân an, chúng sanh an lạc. Chúng ta làm được việc tốt
gì, có được công đức hay phước báu nào, cũng hồi hướng, cầu nguyện cho tất cả
chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho cha
mẹ được mạnh khỏe bình yên, sống lâu trăm tuổi. Song việc đó có được hay không,
còn tùy phước duyên của cha mẹ. Tuy nhiên, việc cầu nguyện như vậy cũng nói lên
được lòng hiếu thảo chân thành của chúng ta.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh
Pháp". Nghĩa là mọi người hãy tự mình tích cực chuyển hóa thân tâm của
mình, bằng cách cố gắng học hiểu giáo lý của đạo Phật, đó là ngọn đuốc Chánh
Pháp, soi đường chỉ lối, giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau của cuộc
đời, khi thực sự đem áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ðó là cách duy nhất thập
phương tam thế chư Phật cứu độ chúng sanh. Người Phật Tử chân chánh cần nên nhớ
kỹ điều này.
* * *
Theo giáo lý của đạo
Phật, con người can đảm nhìn nhận sự thực là: cuộc đời khổ nhiều vui ít, nhưng
không tư tưởng tiêu cực, không bi quan yếm thế, không ngán ngẩm chán chường.
Trái lại, con người tích cực tìm phương cách để được giác ngộ và giải thoát,
không thụ động chấp nhận, không cầu nguyện van xin. Ðể giúp chúng sanh được
sống an vui, xả trừ triền phược, cắt đứt trói buộc, dẹp tan phiền não, thoát ly
đau khổ, trong tam tạng kinh điển, Ðức Phật thuyết minh "Bát Chánh
Ðạo".
Bát chánh đạo là
phương pháp giản dị, thích hợp với đời sống hằng ngày của chúng sanh, nhằm mục
đích cải thiện tâm lý, ngôn từ và hành động, giúp đỡ con người bỏ tà đạo theo
chánh đạo. Bát chánh đạo giúp chúng sanh hướng về, tiến đến một đời sống chí
diệu cao siêu, hay ít ra cũng xây dựng được đời sống an lạc và hạnh phúc. Vì
vậy, "Bát Chánh Ðạo" còn được gọi là "Bát Thánh Ðạo".
Bát chánh đạo là con
đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm tám điều chân chánh,
đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
*1.- CHÁNH KIẾN:
Trước hết, chúng ta
nhận thức mọi sự sự vật vật hiện hữu, tức là muôn pháp trên thế gian, khắp pháp
giới, đều do nhân duyên sinh, không trường tồn và sẽ biến diệt. Ðó là "Lý
Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", hai chánh kiến quan trọng mọi người
cần thấu triệt.
A. - Thế nào là chánh
kiến? - Chánh kiến là kiến thức chân chánh. Nghĩa là con
người cần có sự hiểu biết và sự nhận thức sáng suốt và hợp lý. Chánh kiến có
ích lợi giúp con người không sống trong mê lầm, điên đảo. Người có chánh kiến
thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không thay đổi trắng đen, không kỳ
thị xấu tốt, không phê phán hay dở. Chánh kiến là sự hiểu biết và nhận thức
không bị tập quán, thành kiến, dục vọng hay tâm phân biệt, ngăn che và làm sai
lạc. Người có chánh kiến hiểu biết tường tận thế nào là chánh tà, chơn ngụy,
đại tiểu, thiên viên, nhưng với tâm bình thường, tâm chính trực và tâm bất tùy
phân biệt.
a) Lý nhân quả: Chúng ta ai ai cũng biết: "Gieo nhân nào
gặt quả nấy". Thí dụ như có hột cam gieo xuống đất, gọi là
"nhân", cộng thêm nước tưới, ánh sáng, phân bón, công chăm sóc, gọi
là "trợ duyên", chúng ta sẽ gặt hái được "quả cam", sau một
thời gian nào đó. Không thể nào gieo hột cam ngọt lại gặt quả chanh chua được,
hay ngược lại. Lý nhân quả còn được gọi là lý nhân duyên.
* Không bao giờ có quả
mà không có nhân. Có mây mới có mưa, có lửa mới có khói, gieo gió mới gặt bão,
sinh sự thì sự sinh. Không thể có chuyện tự nhiên có cái cây mọc lên, mà không
có hạt giống trong đất. Không thể có chuyện tự nhiên chúng tới chửi mình, mà
mình chẳng có làm gì hết, trong kiếp này hay những kiếp trước! Ðó là chân lý. Ðó
là lý nhân quả hay lý nhân duyên. Nhận rõ quả báo của hành vi, ngôn từ và ý
niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không trách người, trách trời, trách
đất gì hết, chỉ biết trách mình, cho nên không còn phiền não và khổ đau nữa.
Trái lại, chúng ta tích cực sửa đổi tâm tánh, làm sao cho mỗi ngày một tốt đẹp
hơn, để cuộc đời được sáng sủa hơn, gia đình được hạnh phúc hơn.
* Việc này sinh ra do
việc kia đã sinh ra. Không có chuyện gì xảy ra, dù lớn hay nhỏ, dù quan trọng
hay bình thường, mà không do có chuyện khác xảy ra trước đó. Thí dụ như chúng
ta có cái bánh để ăn, nguyên do trước đó có bột, có đường và có công thợ, dĩ
nhiên cũng do chúng ta có tiền mua. Thí dụ như: Cơ thể phát phì nguyên do ăn
uống quá độ. Nghèo túng nguyên do làm biếng. Bệnh tật nguyên do thiếu vệ sinh.
Con cái không có tình thương đậm đà nguyên do cha mẹ không thường xuyên chăm
sóc, gần gũi. Thiên hạ thù ghét nguyên do lời nói khó nghe. Vợ chồng lục đục
nguyên do thiếu sự cảm thông, thiếu sự hiểu biết, thiếu sự hòa hợp.
* Muôn sự muôn vật
trên thế gian này đều do nhân duyên sinh. Mọi sự mọi việc không do ông trời,
không do một đấng tạo hóa đầy quyền năng nào tạo ra cả. Có người cho rằng:
chính con người sinh ra thượng đế, bởi vì thượng đế chỉ là sản phẩm do con
người tưởng tượng mà thôi.
Mỗi đạo giáo, mỗi dân
tộc, mỗi thời gian, có mỗi quan niệm khác nhau về thượng đế. Thượng đế, nếu có
thực, không thể để cho các người thế gian lợi dụng danh nghĩa và phải là đấng
chí công vô tư. Tại sao lại có những chuyện: trời thương người này hơn người
kia, cho người này sung sướng hơn người kia, người này sinh ra khỏe mạnh, trong
cảnh giàu sang, người kia sinh ra tật nguyền, trong cảnh nghèo khó, dân tộc này
giàu sang sung sướng, dân tộc khác nghèo nàn khổ cực?
Theo giáo lý của đạo Phật,
sở dĩ người này khác người kia về phương diện này hay phương diện nọ, bởi vì
mỗi người tạo tác nghiệp nhân khác nhau, cho nên nhận nghiệp quả khác nhau.
Cũng như người làm bánh thì ăn bánh, người nấu chè thì ăn chè. Chính mình làm
mình hưởng. Chính mình làm mình chịu. Ðó mới thực là chí công vô tư vậy.
b) Lý vô thường: Chúng
ta ai ai cũng biết: "Có sinh ắt có diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật
trên thế gian này đều không tồn tại vĩnh viễn. Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có
dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là bất cứ vật nào có
hình tướng, nhìn thấy được bằng cặp mắt thường, lớn như quả núi, tòa nhà, nhỏ
như tấm thân chúng ta, như hạt cải, hạt cát, tất cả đều hư vọng, đều trải qua
bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Mọi vật sinh ra, trụ thế một
thời gian ngắn dài, rồi cũng biến dị và cuối cùng cũng bị diệt mất! Thí dụ như:
Cây bông hồng từ hạt giống trong đất sinh ra, mọc lên, trổ hoa. Hoa hồng khoe
hương sắc, ít ngày sau héo úa, tàn lụi, trở thành phân bón cho bông hồng khác
sau này. Cuộc đời cứ như thế tiếp diễn không ngừng, đạo Phật gọi là "sự
luân hồi", cũng như bánh xe quay mãi, quay mãi vậy.
Hiểu được như vậy, khi
của cải vật chất, xe hơi đồ đạc bị mất mát hư hao, khi con cái lỡ tay đập bể
hay làm hư hại vật gì, dù quí giá đến đâu, thậm chí khi người thân đến lúc qua
đời, chúng ta sẽ không khổ đau nhiều. Hiểu được như vậy, khi gặp một việc tai
biến, một sự bất trắc, một chuyện bất như ý, thậm chí tán gia bại sản, người
thân biến thành kẻ thù, chúng ta cũng sẽ không đau khổ nhiều. Chuyện gì rồi
cũng sẽ qua, có gì tồn tại mãi mãi đâu mà cố chấp, tranh đua hơn thua, cái mạng
sống này còn không giữ được nữa, huống là thứ gì khác trên đời này? Có ai sống
mãi không chết? Có ai trẻ mãi không già? Có ai khỏe mãi không đau? Ðó là lý vô
thường. Có câu: Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết. Cuộc đời cứ như thế
xoay vần đổi thay, không bao giờ dừng. Thường xuyên quán chiếu, tin sâu
"Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", cuộc đời của con người sẽ
an lạc và hạnh phúc hơn.
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sinh. Nhân duyên
ly tán hư vọng hữu diệt".
Nghĩa là: Muôn sự muôn
vật trên thế gian này do nhân duyên hình thành, tạm gọi là sinh. Muôn sự muôn
vật do nhân duyên tan rã, tạm gọi là diệt. Thí dụ như: Một chiếc xe mới được
hình thành do tất cả các bộ phận, các phụ tùng ráp lại, tạm gọi là sinh. Ðến
khi xe hư, các phụ tùng, các bộ phận được tháo rời ra, chiếc xe không còn nữa,
tạm gọi là diệt. Thí dụ khác: Tấm thân tứ đại của chúng ta cũng vậy, hình thành
do đất, nước, gió, lửa, tạm gọi là sinh. Sống đời một thời gian nào đó, khi hết
nhân duyên, thì cát bụi trở về với cát bụi, tạm gọi là chết. Tại sao vậy? Bởi
vì khi đó, chính là lúc chúng ta bắt đầu một kiếp khác. Bánh xe luân hồi đang
chuyển động đó vậy.
B. - Thế nào là tà kiến? - Ngược lại, tà kiến là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm. Theo
quan điểm của Phật giáo, cho sự hiện hữu của tự thân và hoàn cảnh đều là tự
nhiên, không có quả báo cùng nhiều duyên khác tập hợp, đó là tà kiến và mê tín.
Chấp thượng đế tạo vật, phủ nhận nhân quả nghiệp báo, chủ trương định mệnh, phủ
nhận kết quả của hành nghiệp, đó là tà kiến và mê tín.
Quan niệm thương ghét khác biệt giữa người và
người, giữa người và vật, coi thú vật sinh ra để nuôi sống con người, đó là tà
kiến và mê tín.
Cố chấp thành kiến,
quan niệm phân biệt phải trái, đúng sai cố định, đi tới kết luận, người nào
không tin theo tín ngưỡng như mình, đều phải bị trừng trị nghiêm khắc, phải bị
đọa địa ngục đời đời, đó là tà kiến và mê tín. Chấp theo thần thoại, đồng bóng
bói toán, xem sao giải hạn, định hướng nhà cửa, tin bướng tin càn, tin vô căn
cứ, làm bể cái gương, điềm không may mắn, đầu năm quét nhà, tài lộc ra cửa,
mùng năm mười bốn hăm ba của dân ta, con số 13 của dân tây, cho là xui xẻo, đó
là tà kiến và mê tín. Ðốt vàng mã, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, áo quần, hình
nhơn bằng giấy, cho người chết xài dưới âm phủ, đó là tà kiến và mê tín. Không
may đau bệnh, không khám bác sĩ, không đi bệnh viện, không muốn uống thuốc, không
chịu kiêng cữ, lại đi xem bói, thỉnh bùa chú giấy, đem về đốt uống, nước tiên
nước thánh, nước suối nước sông, chẳng hạp vệ sinh, cũng đem về uống, đó là tà
kiến và mê tín.
Nói chung, những điều
gì phản khoa học, trái với chân lý, không theo lý trí, chẳng thể xét suy, không
thể kiểm chứng, đều được gọi là tà kiến và mê tín. Tà kiến và mê tín thường có
nơi những người có lòng cố chấp nặng nề, chấp ngã và chấp pháp, dù người bình
dân, hay kẻ học thức, ở ngoài thế gian, cũng như trong đạo. Ðức Phật ra đời,
thuyết pháp độ sinh, phá màn vô minh, dẹp tan tà kiến, mê tín dị đoan, chỉ nhằm
mục đích, khai thị chúng sanh, ngộ nhập trí tuệ bát nhã, trong Kinh Pháp Hoa,
gọi là Tri Kiến Phật, để được giác ngộ và giải thoát.
2. - CHÁNH TƯ DUY:
Sách có câu: "Bình
an dưới thế cho người thiện tâm". Người thiện tâm luôn luôn nghĩ tốt, nghĩ
đúng, nghĩ thiện, cho nên làm tốt, làm đúng, làm thiện, và nói tốt, nói đúng,
nói thiện. Người thiện tâm là người có tâm trí luôn luôn được bình an, thảnh
thơi, thư thái.
A. - Thế nào là chánh tư
duy? - Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh.
Nghĩa là con người cần phải nghiệm xét, nghĩ suy, quán chiếu một cách đúng đắn,
hợp với chân lý, không trái với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người. Chúng ta
thường xuyên suy nghĩ đến "giới, định, tuệ" để tu tập giải thoát, suy
nghĩ nguyên nhân gây đau khổ cho chúng sanh, để giải thích và khuyến tu, suy
nghĩ những hành vi lỗi lầm, những lời nói sai trái và những tâm niệm xấu xa của
chính mình để sám hối và cải đổi. Tất cả những điều đó gọi là chánh tư
duy.
Chư Tổ có dạy:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự". Nghĩa là quay lại chiêm nghiệm, suy
xét, quán sát tự tâm chính mình là phận sự của chúng ta. Chánh tư duy có ích
lợi giúp con người không sống trong đen tối, không phạm lỗi lầm do mê tín dị đoan.
Ngày xưa, thời Ðức
Phật còn tại thế, có một người con của vị quốc sư, tên là Ma Ha Ca Chiên Diên,
đến với Ðức Phật xin được xuất gia tu hành. Ðức Phật hỏi nguyên do nào ông phát
tâm như thế. Ông trả lời rằng: Bởi vì ông chiêm ngưỡng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp
của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi thân tướng Như Lai già
yếu, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ hai, ông lại đến xin được xuất
gia. Ðức Phật lại hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông tôn trọng pháp âm
vi diệu của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi Như Lai không
thuyết pháp, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ ba, ông lại đến xin được
xuất gia. Ðức Phật cũng hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông kính phục
chư tăng tu hành nghiêm túc, cẩn mật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi
tình cờ thấy vị tăng nào tu hành không như ý ông, ông không còn phát tâm nữa
sao?
Ba lần xin được xuất
gia đều không toại nguyện, dù ông hết lòng tán thán tam bảo bên ngoài: Phật,
Pháp, Tăng. Lần sau cùng, ông đến với Ðức Phật và bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn,
từ lâu con đã nghe Thế Tôn thuyết pháp, con đã suy nghĩ tường tận chín chắn.
Sau đó, đem áp dụng cho bản thân, áp dụng trong gia đình, con thấy có ích lợi
thiết thực, tâm được khinh an, gia đạo được yên vui. Cho nên con phát tâm xuất
gia để tu hành rốt ráo, cho đến giác ngộ và giải thoát, để tự lợi và lợi tha.
Ngưỡng mong Ðức Thế Tôn rủ lòng từ bi hứa khả. Lần đó, Ðức Phật chấp nhận. Sau
này, Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên trở thành vị đệ tử nghị luận bậc nhứt trong tăng
đoàn thời Phật.
Lời tác bạch của Ðại
Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên mang ý nghĩa sâu sắc trong nhà Phật: Ngài đã nghe Ðức
Phật thuyết giảng giáo lý, đã suy nghĩ một cách chín chắn tường tận, mới đem áp
dụng vào đời sống của Ngài và của gia đình. Ðó chính là ba bước "văn, tư,
tu" để phát triển trí tuệ bát nhã. Văn có nghĩa là nghe, là học hỏi, là
nghiên cứu. Tư có nghĩa là tư duy, là suy nghĩ chân chánh. Tu có nghĩa là sửa
đổi, là thực hành, là áp dụng. Còn được gọi là "Tam Tuệ Học" trong Phật
giáo. Ba lần đầu, Ngài hướng lòng tôn kính đến tam bảo bên ngoài, nên chưa được
chấp nhận.
Sau cùng, Ngài biết
"phản quan tự kỷ", hướng về "tam bảo tự tâm", biết đường
hướng tu hành, để phát sanh trí tuệ. Nghĩa là Phật Tử biết hướng về bản tánh
sáng suốt của tự tâm gọi là Phật, hướng về pháp môn vi diệu của tự tâm gọi là
Pháp, hướng về bản thể thanh tịnh của tự tâm gọi là Tăng. Do đó Ngài được chấp
nhận, bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát, con người đến với đạo Phật
bằng cửa trí tuệ, chứ không phải bằng niềm tin như các tôn giáo khác. Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức
là phỉ báng Như Lai". Ðó chính là chánh tư duy vậy.
B. - Thế nào là tư duy
bất chánh? - Ngược lại, sự suy
nghĩ ích kỷ, lợi mình hại người gọi là tư duy bất chánh. Người nào suy nghĩ đến
chuyện tà thuật để mê hoặc lòng người, suy nghĩ đến những phương cách sâu độc
để hại người hại vật, suy nghĩ đến mưu cơ để trả thù báo oán, suy nghĩ đến tài
sắc danh vọng, đều gọi là tư duy bất chánh. Người nào luôn luôn suy nghĩ đến
chuyện lợi mình hại người như vậy, chắc chắn cuộc sống không bình an, luôn luôn
bất ổn, hại người nên sợ người hại, gạt người nên sợ người gạt.
3. - CHÁNH NGỮ:
Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Ðức Phật có dạy: "Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời
nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người".
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không
bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người nghe được an
tịnh".
A . - Thế nào là chánh
ngữ? - Chánh ngữ là lời
nói chân chánh. Nghĩa là con người nên nói lời thật thà lương thiện, công bình
ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng. Chánh ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt;
lời nói ngay thẳng hợp lý, hòa nhã, rõ ràng và giản dị; lời nói ích lợi, dung
hòa, khuyến tấn và duy nhất. Chánh ngữ là lời nói hợp Chánh Pháp, có ích lợi,
đem lại hòa bình, yên vui cho mọi người mọi nơi. Người giữ gìn chánh ngữ là
người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực,
không thiên vị, không xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa.
Cổ nhân có dạy:
"Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi
nói luôn. Lúc đó gọi là ngộ đạo, bởi vì: "Ðạo bổn vô ngôn thuyết",
bởi vì: "Ngữ ngôn đạo đoạn".
Nghĩa là đạo lý cao siêu, vốn không thể nói,
không có lời nào diễn đạt được. Khi còn nói lên được, đó chỉ là phương tiện
hướng dẫn mà thôi. Cho nên muốn kiến đạo, đừng chấp lời nói, đừng chấp văn tự.
Thí dụ như có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cho người khác thấy. Ngón
tay chỉ là phương tiện. Mặt trăng mới là mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng
gọi là thấy đạo, kiến đạo. Cho nên muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay thế
này thế nọ.
Tục ngữ có câu:
"Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Trong
xã hội hay gia đình, nếu mọi người đều thực hành hai câu trên, xã hội sẽ an
vui, gia đình sẽ hạnh phúc. Vợ chồng con cái trên thuận dưới hòa, cộng đồng
trên kính dưới nhường, cuộc đời tươi đẹp biết là bao nhiêu. Một lời nói nói ra
làm cho người nghe hoan hỷ, nụ cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó gọi là chánh
ngữ vậy.
B. - Thế nào là tà ngữ? - Ngược lại, lời nói bất chánh hay tà ngữ là
lời nói không chánh đáng, phi lý, tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người.
Một lời nói ra có khi làm người nghe phải xức dầu cù là, nhức óc nhói tim, có
khi ngất xỉu tắt thở luôn, đó là lời nói sâu độc, hiểm ác, đay nghiến, nguyền
rủa, nhiếc mắng, thô tục. Một lời nói ra có khi làm tan vỡ hạnh phúc gia đình
người khác, đó là lời nói đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen, nước lã khuấy
nên hồ, lộng giả thành chơn, có nói không, không nói có.
Một lời nói ra có khi
làm người khác mang họa vào thân, đó là lời nói vu khống cáo gian, vu oan giá
họa cho người. Một lời nói ra có khi làm người khác lầm lẫn, đó là lời nói
không đúng sự thực, không ngay thẳng, thiên vị, dua nịnh, xuyên tạc, ngụy biện,
trau chuốt, với mục đích thủ lợi. Một lời nói ra có khi làm người khác xung đột oán thù, thưa gởi
kiện tụng, đó là lời nói dối trá, gây chia rẽ, đâm bị thóc thọc bị gạo, có di
hại cho mọi người và muôn vật. Những người có nhiều tự ái, thường khó lòng nhịn được khi nghe
những lời nói trái ý, không thuận theo ý mình, thường hay tranh cãi bằng mồm
hoặc bằng thư rơi.
Có những lời nói vô
nghĩa, nhưng cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức giận, bất an. Chẳng
hạn như có người nói mình ngu như con bò mà bày đặt dạy đời. Lời nói đó thực ra
vô nghĩa lý, bởi vì mình không ngu, mình không phải là con bò, cho nên không
cần phải quan tâm đến những lời nói như vậy. Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy:
"Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta chỉ nên quan tâm đến ý nghĩa,
không nên chấp vào lời nói. Ðược như vậy, chúng ta bớt nhiều phiền não trên thế
gian này.
4. - CHÁNH NGHIỆP:
Con người thường có ba
nghiệp, đó là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về
thân nghiệp. Còn khẩu nghiệp thuộc phần chánh ngữ và ý nghiệp thuộc phần chánh
niệm.
A. - Thế nào là chánh
nghiệp? - Chánh nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân
chánh. Nghĩa là con người nên chọn nghề nghiệp chân chánh, hành động một cách
ngay thật, có ích lợi chánh đáng cho mình và cho người. Chánh nghiệp có ích lợi
giúp con người mang lại bình an, hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người xung
quanh.
Người giữ gìn chánh
nghiệp là người dè dặt thân nghiệp, luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành
động, cử chỉ, cách cư xử của mình, để không làm thương tổn đến quyền lợi, nghề
nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc và tánh mạng của mọi người. Người giữ gìn
chánh nghiệp là người hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh
phúc của mọi người và muôn vật, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản
của mọi người, không trác táng, tận tâm với chức nghiệp, biết hy sinh để giải thoát
khổ đau cho mọi người.
Người giữ gìn chánh
nghiệp là người giữ gìn tam nghiệp được thanh tịnh. Kinh sách có câu: "Tam
nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây phương". Nghĩa là nếu biết giữ
gìn tam nghiệp luôn luôn được thanh tịnh, chúng ta cùng với chư Phật, hiện đời
sống trong cảnh giới niết bàn, tự tại giải thoát, không phiền não, chẳng khổ
đau, không sợ địa ngục, chẳng cầu niết bàn.
B. - Thế nào là tà
nghiệp? - Ngược lại, tà
nghiệp tức là hành vi hay động tác không chánh đáng, phi lý bất lương, tổn hại
mọi người. Ðó là các hành vi sát hại bạo tàn, giết người hại vật coi như trò
giải trí, thú vui tiêu khiển, vui thích trên sự đau đớn của con người và của
con thú, trộm cắp của cải, chiếm đoạt tài sản, xúi giục kiện thưa, thưa kiện
kiếm tiền, ăn chơi trụy lạc, xa hoa trác táng, khuyến khích người khác xa hoa
trác táng, thượng đội hạ đạp, giẫm lên người khác để tiến thân, bất chấp thủ
đoạn, sáng tác thư rơi, đe dọa mạng sống, nặc danh khủng bố, tinh thần người
khác.
5. - CHÁNH MẠNG:
Có một vị thiền sư khi
tuổi đã cao, vẫn cứ ngày ngày làm lụng như mọi người khác, các đệ tử thấy vậy
bèn đem giấu các dụng cụ làm việc của thầy. Ngày đó, vị thiền sư không làm việc
được, nên chẳng chịu ăn uống, và dạy rằng: "Một ngày không làm là một ngày
không ăn".
A. - Thế nào là chánh
mạng? - Chánh mạng là
mạng sống chân chánh. Nghĩa là con người cần sinh sống một cách chánh đáng, có
đời sống lương thiện, ngay thật, trong sạch, không bạo tàn, không hèn mạt.
Chánh mạng có ích lợi giúp con người có cuộc sống bình đẳng, tương kính, không
bị rẻ khinh. Người giữ gìn chánh mạng là người sống một cuộc đời có ý nghĩa,
lợi mình, lợi người, không ăn bám ai, cũng chẳng ăn không ngồi rồi. Người theo
đúng chánh mạng là người sinh sống theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và
hạnh phúc của mọi người, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản, tận lực
làm việc, không tổn hại mọi người và muôn vật, sinh sống với tài năng chân
chánh, không giả dối lừa gạt mọi người, sinh sống thanh cao không luồn cúi,
không thượng đội hạ đạp, sinh sống theo chánh giáo, không mê tín dị đoan.
B.- Thế nào là tà mạng? - Ngược lại, tà mạng là sinh sống bất lương,
gian tham, không chánh đáng, phi lý, phạm pháp, có tổn hại trực tiếp hay gián
tiếp đến mọi người, làm tổn hại chúng sanh, giết thú lột da, cưa ngà xẻ thịt,
moi óc bẻ sừng, vặt lông làm đồ trang sức, may áo may quần, cúng trăng cúng
sao, tiên đoán vận mệnh, xem quẻ bói xăm, coi tuổi tình duyên, tương lai gia đạo,
ăn gian nói dối, lường gạt mọi người, giao dịch gạt gẫm, sáng chế vũ khí, giết
người hại vật, chế đồ giả mạo. Quan niệm một ngày ăn cướp bằng ba năm làm, sống
theo lối nước đục thả câu, ngư ông hưởng lợi, đó là tà mạng.
6. - CHÁNH TINH TẤN:
Trong Kinh Di Giáo,
Ðức Phật có dạy: "Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì khó. Ví như
nước chảy mãi, đá cũng phải mòn". Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Ðức Phật
có dạy: "Người học đạo phải nên kiên tâm, trì chí, tinh tấn, dũng mãnh,
không sợ cảnh khổ trước mắt, phá diệt tà tâm, đạt thành đạo quả".
A.- Thế nào là chánh tinh
tấn? - Chánh tinh tấn là sự siêng năng chân chánh.
Nghĩa là con người siêng năng làm những việc có ích lợi cho mình và cho người.
Chánh tinh tấn có ích lợi giúp con người cải tạo thân tâm ngày một thanh tịnh,
tốt đẹp hơn, cuộc đời có ý nghĩa hơn. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ
cũng phản quan tự kỷ, quay lại xét mình, siêng năng chuyển hóa tâm trí, cải đổi
tánh tình.
Trong Kinh Ðại Bát
Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác.Sách có câu: "Có công mài
sắt có ngày nên kim", nói lên sự kiên tâm bền chí, nhẫn nại phi thường,
trải qua thời gian năm tháng, không sờn lòng, không khuất phục, để đạt cho bằng
đượChúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo".
Nghĩa là: Không bao giờ nên làm các điều ác, các điều bất
thiện, dù là nhỏ nhặt. Luôn luôn tinh tấn làm tất cả các điều thiện, dù là điều
thiện rất nhỏ. Tự thanh tịnh tâm ý của chính mình. Ðó là lời dạy của thập
phương tam thế chư Phật. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ cũng siêng năng
sám hối, trừ bỏ những lỗi lầm tội ác đã sinh, siêng năng tu tập các pháp lành,
ngăn ngừa tội ác chưa sinh, siêng năng làm việc thiện để tạo thêm phước, phát
triển việc lành, siêng năng tu tâm dưỡng tánh, việc thiện chưa sinh làm cho phát
sinh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, không hề đổi thay, không chút
chán chường. c mục đích cao cả của mình.
Người tu theo hạnh tinh tấn của Bồ Tát Ðại Thế Chí, làm các việc thiện, cứu
người giúp đời, không biết mệt mỏi, không hề nản lòng, không màng tính toán,
không chút so đo, không chịu ngừng nghỉ, mặc dù đang gặp nghịch cảnh, đang mắc
khổ nạn, đang gặp oán thù, mặc dù có gặp người lấy oán báo ân, cũng vẫn bình
thản. Ðó là chánh tinh tấn vậy.
B.- Thế nào là tinh tấn
bất chánh? - Ngược lại, có rất nhiều người siêng năng làm
những việc bất chánh. Ðó là những người chuyên sát nhơn hại vật, gian xảo trộm
cắp. Có những người siêng năng trong các việc dối trá hiểm độc, sáng tác thư
rơi, dua nịnh xuyên tạc, rượu chè cờ bạc, xa hoa phung phí, phỉ báng mọi người.
Cũng có những người siêng năng bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, soi mói đời
tư, viết thư nặc danh, ngụy tạo chứng cớ, thưa gởi kiện tụng, làm khổ chúng
sanh.
7. - CHÁNH NIỆM:
Trong Kinh Ðại Tập, Ðức
Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động,
dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề".
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Không hạnh phúc nào có thể so sánh với
sự yên tĩnh của tâm trí".
A. - Thế nào là chánh
niệm? - Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nghĩa
là con người có những ý niệm chánh đáng, những đạo lý giác ngộ và giải thoát.
Chánh niệm có ích lợi giúp con người sống trong an ổn, yên vui, không tạp niệm,
ngày ăn ngon, tối ngủ yên. Người giữ gìn chánh niệm là người dè dặt với ý
nghiệp, luôn luôn nhớ nghĩ tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân đất nước, ân
mọi người, nhớ nghĩ lỗi lầm để sửa đổi. Người giữ gìn chánh niệm là người sống
trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Ðể giúp giữ gìn chánh niệm, Ðức Phật có
dạy bốn phương pháp tập trung tư tưởng như sau: quán thân bất tịnh, quán thọ
thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Các pháp quán tưởng này được gọi
là "Tứ niệm xứ". Tứ nghĩa là bốn. Niệm nghĩa là thường nhớ nghĩ. Xứ
nghĩa là nơi chốn.
a) Quán thân bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là tập hợp
những thứ bất tịnh, không trong sạch, nhơ nhớp, được bọc ngoài bởi lớp da cũng
chẳng mấy gì sạch sẽ cho lắm. Khi mạnh khỏe thì còn tạm tạm. Khi ốm đau, tai
nạn, bệnh hoạn, già nua, thân mình nhơ nhớp, máu mủ tanh hôi, ghẻ chốc gớm
ghiếc, da dẻ nhăn nhúm, đến lúc tắt thở, sình chương hôi thúi, không ai chịu
nổi! Món ăn dù ngon, đưa vô miệng rồi, lỡ rớt ra ngoài, không dám ăn lại!
b) Quán thọ
thị khổ: Nghĩa là quán tưởng
sự cảm thọ, thọ nhận là khổ. Do tâm tham lam, con người thọ nhận đủ thứ vật
chất của cải để vinh thân phì gia, không cần biết của thọ nhận chính hay tà, bo
bo giữ gìn, đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt không yên. Do tâm sân
hận, con người thọ nhận đủ thứ lời nói khó nghe, dù vô nghĩa, để bực dọc, tức
tối, bất an, sinh lòng thù oán. Do tâm si mê, con người thọ nhận những tư tưởng
mười năm báo thù không muộn, do điều gì bất như ý, chạm chút tự ái, cũng hăm he
thưa kiện, nhứt định trả thù, để rồi gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người,
dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ nhiều, chấp nhiều thì mệt
nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện rất đơn giản, thực
hành không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
c) Quán tâm vô thường: Nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của mình
luôn luôn thay đổi, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế khác, lúc thương yêu đắm
đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc
ghét, lúc hiền thiện lúc gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần
bên ngoài, kinh sách gọi là tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài thuận ý, vừa
tai thì vui thích. Cảnh trần bên ngoài nghịch ý, chói tai thì tức tối. Nếu chỉ
chạy theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, con người tạo tác không
biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong sinh tử không
biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!
Trong kinh sách có
câu: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là khi nào tâm của chúng
ta không còn dính với cảnh trần nữa, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm
của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió
của cuộc đời, tức nhiên tâm của chúng ta sẽ được khinh an, tự tại, niết bàn và
thiền định rồi đó vậy.
d) Quán pháp vô ngã: Nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian
này đều không có bản thể nhứt định, gọi là vô ngã. Các pháp, là tất cả sự sự
vật vật trên cuộc đời, không có cái gì cố định. Tất cả chỉ là một dòng chuyển
biến không ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi
cũng qua mau. Ðừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp của thế gian. Chẳng hạn
như có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", hoặc "Sau cơn mưa
trời lại sáng".
Trong Kinh A Hàm, Ðức
Phật có dạy: "Chư pháp tùng nhân duyên sanh. Chư pháp tùng nhân duyên diệt".
Nghĩa là muôn sự muôn
vật trên đời tùy theo nhân duyên mà sinh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt
đi. Không có cái gì, vật gì có thực tướng, không có cái gì, vật gì tồn tại vĩnh
viễn. Người ta chửi mình do mình gây nghiệp bất thiện cảm với người. Người ta
chửi mãi mõi miệng thì cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt! Ðừng đưa cái
bản ngã của mình, tức là cái tôi, cái ta, tây phương gọi là "EGO", ra
hứng những ngọn lửa của thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có bị nhiệt
não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ngọn
lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô ngã đơn giản là như vậy
đó!
B. - Thế nào là tà niệm,
tạp niệm, vọng niệm? - Ngược lại, tà niệm là những ý niệm không
chánh đáng, vọng niệm là những ý niệm hư dối, tạp niệm là những ý niệm lung
tung linh tinh lang tang. Những người luôn luôn nhớ nghĩ lỗi người để phê bình
chỉ trích, nhớ nghĩ oán thù để phục hận trả thù, nhớ nghĩ ngũ dục: tiền tài,
nhan sắc, danh vọng, ẩm thực, thùy miên, luôn nhớ nghĩ đến những thành tích xấu
xa, gian giảo, để tự hào tự đắc, đó gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm.
Chư Tổ có dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa
là: Bên trong, chúng ta cố gắng khắc phục tâm niệm lăng xăng lộn xộn, giữ gìn
chánh niệm, chăn giữ ý nghiệp, đó mới là công phu tu tập đúng Chánh Pháp. Bên
ngoài, chúng ta giữ gìn chánh ngữ, canh chừng khẩu nghiệp, không tranh cãi,
không hơn thua, đó là đức độ của người tu theo đạo Phật. Cho dù có bị phỉ báng,
có gặp nghịch cảnh, cũng vẫn bình tĩnh thản nhiên, ngoài mặt cũng như trong
lòng, không khởi lên bất cứ tâm
niệm gì cả.
8. - CHÁNH ĐỊNH:
Muốn được cuộc sống an
lạc và hạnh phúc, chúng ta phải khắc phục tâm ý của chính mình. Khắc phục tâm ý
và an trụ tâm ý là mục đích chính yếu của người tu theo đạo Phật. Chế ngự được,
khắc phục được tâm viên ý mã, tức là tâm như con vượn, ý như con ngựa nhảy nhót
lung tung, chúng ta mới đạt được chánh định, đó là cảnh giới niết bàn, an nhiên
tự tại, không khổ đau, chẳng phiền não.
A. - Thế nào là chánh
định? - Chánh định là sự thiền định chân chánh. Nghĩa
là con người tập trung tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý,
hợp lẽ phải. Người đạt được chánh định là người bình tĩnh, thản nhiên trước bát
phong của cuộc đời. Chánh định có ích lợi giúp con người phát triển trí tuệ,
mau tiến đến giác ngộ và giải thoát. Tâm trí của con người thường xuyên lăng
xăng lộn xộn, nhớ nghĩ lung tung, linh tinh lang tang, không có dừng nghỉ, từ
đông sang tây, từ cổ chí kim, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ thế giới năm
châu đến phụ nữ nhi đồng, từ quốc gia đại sự đến hang cùng ngõ hẹp, hết chuyện
gia đình đến chuyện hàng xóm, chuyện xưa chuyện nay, thương ghét tốt xấu, thị
phi phải quấy. Tất cả những chuyện như vậy làm cho tâm của chúng ta luôn luôn
loạn động. Tâm loạn động thì trí bất an. Ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên.
Ðể giúp con người đạt được chánh định, Ðức Phật dạy các pháp quán tưởng sau
đây:
a) Quán sổ tức: Nghĩa là quán tưởng bằng cách đếm hơi thở ra
hơi thở vào, để đối trị tâm loạn động. Ðến khi thuần thục, chỉ cần theo dõi hơi
thở, không cần đếm số như lúc mới bắt đầu, đó gọi là tùy tức quán. Sách có câu:
"Thở vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười".
b) Quán bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là một tập hợp
những thứ bất tịnh, không có gì đáng quan trọng, khi chết thân mình chỉ còn là
một cái thây ma không ai dám đến gần, kể cả những người thân thiết nhất trên
đời, để đối trị tâm tham dục.
c) Quán từ bi: Nghĩa là quán tưởng mọi người đều bình đẳng,
đều có Phật Tánh như nhau, đều đáng thương như nhau, thương người như thể
thương thân, để diệt trừ tâm sân hận, thù hằn, oán hờn, ganh ghét, ích kỷ, đố
kỵ. Không thể chỉ vì một chút tự ái nhỏ nhặt, một chút mặt mũi, danh dự nào đó,
có thể tạo nghiệp oán thù, kiện tụng thưa gởi. Cổ nhân có dạy: "Chuyện gì
mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người
khác", cho dù với mục đích trả thù, trừng trị kẻ khác, vì bất cứ lý do gì!
d) Quán nhân duyên: Nghĩa là quán tưởng tất cả muôn pháp đều do
nhân duyên sinh ra, cho nên giả hợp, không bền vững, không tồn tại vĩnh viễn,
để đoạn trừ si mê, chấp ngã và chấp pháp. Muốn thực hành pháp quán này, cần
thấu triệt và tin sâu "Lý Nhân Quả" hay "Lý Nhân Duyên".
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
TKN
Thích Nữ Chân Liễu
***
***
Pháp vũ đồng lưu, lưu bất đoạn
Phật đăng phổ chiếu, chiếu vô cùng.
(Mưa pháp tràn lan, lan chẳng dứt
Đèn từ rạng chiếu, chiếu không cùng.)
(Tổ Khánh Hòa)
Từ ngàn xưa cho đến ngày
nay, Phật Giáo đồ khắp năm châu đã đón nhận ánh sáng khai ngộ của Ðức Phật bằng
sự chân thành cung kính và tri ơn vô cùng vô tận. Khi còn là Thái tử Tất Ðạt
Ða, nhận thấy cảnh sanh lão bịnh tử, đem đến sự thống khổ cho nhân loại, Ngài
quyết tâm ra đi tìm đạo giác ngộ giải thoát cho chúng sinh. Trải qua nhiều
chặng đường cầu đạo gian lao, với sáu năm kiên trì khổ hạnh, Ðức Phật đoạn trừ
được hết tham ái, lậu hoặc và vô minh, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng
chánh giác, trở thành Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi đắc đạo, Ðức Thế
Tôn nhắn gởi nhân loại thông điệp: “Tất cả chúng sanh đều bình đẳng trong Phật
tánh, không phân biệt giai cấp quí tộc hay hạ tiện. Ta là Phật đã thành, tất cả
chúng sanh đều có khả năng thành Phật”. Nghĩa là không có giai cấp phân biệt
trong Phật tánh, khi mê lầm là chúng sanh, khi giác ngộ sẽ thành Phật. Ai cũng
có Phật tánh giống nhau và có thể tu hành để thoát vòng luân hồi sanh tử. Ðó
chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật tuyệt đối.
Sự Bình Ðẳng Trong Nhân Gian:
Xưa kia, xã hội sống
dưới sự thống trị của giai cấp giàu có và đầy quyền lực. Do đó, tạo ra nhiều
bất công và bất bình đẳng về vật chất, quyền lợi và địa vị. Nhân gian thống khổ
lầm than, đấu tranh, hận thù, chết chóc luôn xảy ra. Vì phải chịu đựng sự áp
bức bất công, đau khổ, nghèo đói, và ly tán, người dân thường hay cầu khẩn, van
xin, để được nhiều điều ước muốn bình an như ý. Họ tìm tới những thuật sĩ và
đạo sĩ, chuyên dụ dẫn mê hoặc tín đồ nhẹ dạ, nhắm mắt tin tưởng những vị thần
thánh huyền thoại tưởng tượng, đầy vạn năng, có thể ban phước giáng họa theo
lời cầu khẩn van xin. Dựa vào những ảo tưởng mơ hồ đó, thường không được như ý,
con người chìm đắm trong đau khổ và thù hận, chiến tranh bùng nổ khắp nơi. Ngày
nay, luật pháp do con người đặt ra, tôn trọng nhân quyền trong xã hội tuy có
tiến bộ, bình đẳng được cải thiện trong một số lãnh vực cần thiết về đời sống,
đạo đức được đánh giá cao, nhưng đó chỉ là bình đẳng tương đối trong thế gian
mà thôi.
Trong đời sống gia đình, giữa vợ
chồng, con cái, sự bình đẳng được đặt vào vị trí cho từng thành viên. Ðạo đức
giữa vợ chồng là phải có sự tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Cha mẹ
phải có trách nhiệm về sự trưởng thành của các con. Phận làm con cũng phải vẹn
tròn hiếu đạo đối với cha mẹ. Như vậy ngay trong gia đình, sự bình đẳng tương
đối đem lại an lành và hạnh phúc. Ðạo đức xã hội được cải thiện, đời sống bớt
đi tranh chấp, phân biệt đối xử, phải trái, hơn thua, được mất, giấc ngủ mọi
người tương đối được bình yên. Kinh Pháp Cú có dạy:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua đều xả bỏ
Giấc ngủ được bình yên.
Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh Trong Nhân Quả:
Chân lý nhân quả chi
phối việc thiện ác từ quá khứ, hiện tại và vị lai, trong nhiều đời nhiều kiếp.
Những hành vi thiện ác đều bình đẳng trong nhân quả, không có sự biệt trừ. Ai
tạo nhân lành thì hưởng kết quả an vui, ai gieo nhân ác thì lãnh hậu quả đau
khổ. Con người nếu biết dừng các nghiệp nhân xấu ác, bất thiện từ trước, ngày
nay biết tạo nhiều nghiệp nhân thiện lành phước báu; đến khi nghiệp quả, nghiệp
báo xảy đến, còn gọi là quả báo, con người cũng phải đền
trả, nhưng nhờ có phước báo nên chỉ đền trả một cách nhẹ nhàng hơn. Ðó chính là “Suối Nguồn
Bình Ðẳng TánhTrong Nhân Quả”. Kinh Pháp Cú có dạy:
Hận thù diệt hận thù
Trên đời không thể có
Trên đời không thể có
Từ bi chuyển hận thù
Hận thù sẽ tự diệt.
Như muốn được an lạc
hạnh phúc, con người phải biết xả bỏ oán kết với người, lấy ân báo oán, oán
nghiệp sẽ tự tiêu tan. Người muốn tạo phước đức, để không phải đền trả quả báo
một cách nặng nề do nghiệp nhân cũ, trước hết phải tự thanh lọc thân khẩu ý cho
toàn thiện, tự chế tham sân si của bản thân, tu nhân tích đức, giúp đỡ người
hoạn nạn. Ðó là phép tu chuyển nghiệp tốt nhất.
“Suối Nguồn Bình Đẳng
Tánh Trong Nhân Quả”, là tự thân mỗi người khi sanh ra trong thế gian này đều
khác nhau về hoàn cảnh, phước báo, khả năng, thể chất, tri thức. Hiểu rõ được
các sai khác này là sự suy nghĩ chân chánh, trong bát chánh đạo gọi là chánh tư
duy. Từ đó, chúng ta sẽ sống vì người, nghĩa là không so đo, không hơn thua,
không ganh ghét đố kỵ và không thù hằn vô cớ với người.
Chúng ta cảm thấy vui
với hạnh phúc của người, biết chia sẻ nỗi khổ của người bất hạnh, biết cách đối
xử với nhau bằng sự chân thật của lòng bình đẳng vị tha. Nếu con người luôn
sống đời phạm hạnh đạo đức, tâm tánh bình đẳng khiêm cung, lòng bao dung và
bình đẳng với người kém phước hơn mình, chính là nhân lành đem về kết quả an
vui. Sống trên đời không ai muốn bị sỉ nhục, tài sản bị chiếm đoạt, hay bị mất
thân mạng. Những hành động tốt giúp đỡ người cô thế, an ủi người bị thất bại,
lòng tôn trọng người sẽ được người tôn kính trở lại.
* Tôn trọng nhân phẩm
người như nhân phẩm của mình
* Tôn trọng tài sản
người như tài sản của mình.
* Tôn trọng sinh mạng
người như sinh mạng của mình.
Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh Trong Ðạo Phật:
Ðức Phật như một tấm gương
sáng ngời, đạo hạnh của Ngài chuyển hóa được xã hội đầy những chia rẽ, bất
công, trở về đời sống đạo đức. Giáo lý của Đức Phật là “Suối Nguồn Bình Đẳng
Tánh” công bằng tuyệt đối, đã đem mọi người trong xã hội ngồi gần lại với nhau.
Đạo Phật dạy, giữa người với người một cái nhìn khinh mạn, một cử chỉ chê cười
cũng không nên có.
Ngày nay, mọi người gặp
nhau trong chùa, thường chắp tay chào nhau một cách cung kính, đó là thể hiện
sự trân trọng Phật Tánh bình đẳng sẵn có của mỗi người, không phân biệt tại gia
hay xuất gia, hoặc tướng giàu, tướng nghèo, địa vị cao hay thấp. Khi chào nhau
như vậy, tâm con người trở nên khiêm hạ vô tư, tinh thần bình đẳng tánh trong
đạo Phật là không thấy mình lễ và không phân biệt người nhận lễ. Nhất thiết
chúng sanh giai hữu Phật tánh. Ðó là hình ảnh thật đẹp và cao quí vô cùng của
những người biết tôn trọng “Sự Bình Đẳng Tánh Trong Đạo Phật”.
Căn bản của đạo Phật là
sự sáng suốt ngay tự thân tâm thanh tịnh, rèn luyện người tu đức tánh bình đẳng
bằng Phật tâm, Phật tánh. Con người muốn tu phải diệt lòng tham lam, sân hận,
si mê và ích kỷ ngã mạn, trở về với “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật cao
thượng theo lời Phật dạy. Sự tôn trọng nhân phẩm tất cả mọi người, từ hành động
thân khẩu ý đều do tâm từ thanh tịnh mà ra. Đạo Phật khuyến khích con người tu
tâm dưỡng tánh, khai mở trí tuệ, tăng trưởng thiện căn, tạo nhiều phước đức, an
lạc và hạnh phúc khắp mọi nơi. Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:
Tâm dẫn đầu mọi pháp
Làm chủ và tạo tác
Lời nói hay hành động
Với tâm từ thanh tịnh
Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng không rời hình.
Diệu Dụng Của Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh:
Khi bản tánh cao thượng
của con người không còn thấy ai hơn ai kém, không còn tánh kiêu căng ngã mạn,
con người sống trong Phật tánh sáng suốt của “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh”, nghiã
là luôn luôn sống với tâm giống như chư Phật. Sự an lạc chân thật của người có
tâm hạnh bình đẳng ảnh hưởng đến những người thân sống chung quanh, cũng là
gương giác ngộ sáng suốt lợi tha hiệu quả vô cùng. Tuy con người mê ngộ không
đồng, nhưng Phật tánh đều bình đẳng. Người biết cách tu, không phân biệt tại
gia hay xuất gia, có được tánh khiêm cung và bình đẳng, sẽ gặt hái được rất
nhiều điều lợi ích cho cuộc sống. Muốn có được công đức và phước đức, dùng làm
chiếc thuyền vượt qua biển khổ phiền não vô cùng vô tận từ nhiều đời kiếp,
chúng ta cố gắng làm được 10 điều sau:
Tâm cầu đạo, nhiệt thành
tinh tấn
Biết hổ thẹn, ghê sợ tội
lỗi
Không độc hiễm, thù oán
hại người
Không ganh tỵ, đức tánh
trong sạch
Không bỏn sẻn, tâm từ
quảng đại
Không khinh người, nếp
sống đạo đức
Tu đạo hạnh, trau giồi
Phật pháp,
Làm từ thiện, giúp đời
cứu người
Biết hy sinh, vì người
quên mình.
Hành việc đạo, sáng suốt
khôn ngoan.
Ðức Phật thành đạo ngay
cõi ta bà và thuyết pháp độ sanh suốt 45 năm cho đến lúc nhập diệt, để lại bao
nhiêu lời dạy vàng ngọc quí báu hơn cả trân châu trong cõi đời. Tâm đại từ đại
bi như cha lành thương con, tất cả đệ tử đều phải nương vào giáo lý của đức Thế
Tôn trao truyền mà được giác ngộ sáng suốt theo chánh đạo, không đi sai đường vào
tà đạo. Ðức Phật dạy ba môn học “Giới Ðịnh Tuệ” làm căn bản, nghĩa là hành giả tu theo Phật phải tự thắp đuốc lên
mà đi, để biết đường mà tu, biết đạo mà hành.
- Giới là những điều luật giữ
cho con người không tạo nghiệp ác.
- Ðịnh là sự hành trì tu tập đoan chánh đi đến nhất tâm
không còn loạn động.
- Tuệ là sự giác ngộ sáng suốt đưa đến giải thoát sanh tử, đoạn tận vô
minh.
Tóm lại, đạo Phật là đạo
giác ngộ và giải thoát, đức Phật là bậc từ bi và trí tuệ cao tột. Trí tuệ giác ngộ là biết đời sống vô thường, sanh diệt không ngừng,
con người chuyển biến từ sanh, lão, đến bịnh, tử; và hiểu được sự bình đẳng vô
phân biệt của Phật tánh.
Tâm từ bi đưa con người
đến sự giải thoát phiền não của nghiệp chướng nhiều đời kiếp. Người tu biết
trưởng dưỡng tâm từ bi, biết giữ giới, tu thiền định, được trí tuệ, tự tu tự độ
sẽ được giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi. Ðó là con đường thành đạo
quả chánh đẳng chánh giác mà Ðức Thế Tôn đã đi và chỉ dạy với tâm đại từ đại bi
cao thượng.
Trong Kinh Pháp Hoa,
Thường Bất Khinh Bồ Tát đã giác ngộ được Phật tánh bình đẳng cao thượng, gặp ai
Ngài cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật”.
Suối nguồn bình đẳng tánh là sự giác ngộ và giải thoát của Phật tâm, Phật tánh
nơi tự thân mỗi con người. Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, dùng chánh pháp
làm chỗ nương tựa. Chánh pháp của đức Phật mãi mãi là con đường tiến đến tâm
hạnh thiện lành trọn vẹn cho người tu, và đem lại đời sống đạo đức cao thượng,
để không còn cái ta khổ đau và phiền não nữa. Chân lý tối thượng vượt trên tất
cả chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” vô ngã tuyệt đối. []
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN. Thích Nữ Chân Liễu
(Canada)
MÊ TÍN DỊ ĐOAN
Toàn Không
Toàn Không
I). Thế nào là mê tín?
Mê tín là u mê không hiểu biết
chân chính, tin những điều không đúng sự thật, tin mù quáng; phần nhiều là
những việc về tinh thần, nhưng cũng ảnh hưởng về vật chất, mê lầm tưởng đó là
sự thực; từ sự tin sai lầm đưa tới nói năng hành động sai lầm. Như tin bà đồng
bà cốt, tin bói quẻ, tin thầy bùa thầy chú, v.v…, những loại tin này không có
một chút căn bản, không thể chứng minh được, nên được liệt vào hạng mê tín dị
đoan.
II). Nguồn gốc mê tín:
Mê tín là cái bệnh có từ khi có
loài người đến bây giờ, có khi mê tín cách này, có khi mê tín thế khác, như
thời xưa tin có thần cây đa, thần giếng nước, thần sông, thần đầu làng,
v.v…Ngày nay sự mê tín này đã giảm nhiều, nhưng lại có những loại mê tín mới
khác rất thịnh hành trong đời sống hàng ngày.
Sự mê tín, không phải tự nhiên
mà có, nó có nguồn gốc do sự mong cầu mà ra, do sự sợ hãi mà ra. Chúng ta thử
phân tích hai loại nguồn gốc này:
1). Mê tín do sự sợ hãi:
Khi xưa thờ đủ thứ vì sự sợ hãi
của con người trước thiên nhiên như thiên tai bão tố, lũ lụt ngập tràn, sấm
chớp chát chúa kinh hoàng, lốc xoáy tàn phá cuốn lôi, đêm tối mịt mù. Tất cả đã
làm cho con người chết chóc, tai ương, nhà tan cửa nát v.v…, thành ra sợ hãi.
Con người đã nghĩ ra có thần nọ, qủy kia tức giận gây nên sự tệ hại ấy, và họ
phải cúng vái để xin được yên ổn.
Ngày nay, sự sợ hãi trên bớt
nhiều, nhưng sự sợ hãi khác kín đáo hơn và sâu xa hơn vẫn hoành hành ở mọi nơi,
không cứ ở Á Châu có mê tín , mà ở Âu , Mỹ, Úc, Phi Châu đều có mê tín, nhưng
với hình thức khác nhau thôi. Như đối với dân Việt Nam, khi một gia đình liên
tiếp trong một số năm có hai ba người bị tại nạn, bệnh hoạn chết, là có người
đưa ra câu hỏi tại sao gia đình ấy lại có tai họa như vậy, có thể gia đình này
có chuyện gì nên mới xảy ra như thế, chắc là động mồ động mả? Có lẽ có ma
quỷ ám, chắc là có người dùng bùa ếm hại, hay là có thần linh nào dáng họa cho
gia đình ấy? v.v…
Người ta nghĩ ra đủ
thứ nghi vấn, kể cả những người trong gia đình ấy cũng có suy nghĩ giống như
thế; rồi họ bàn ra tán vào từ cửa miệng người này qua cửa miệng người khác, họ
đề nghị chỗ nọ linh thiêng nên đến đó lễ bái cho tai qua nạn khỏi; chỗ kia có
thầy bói thầy tướng, ông đồng bà cốt, thầy bùa thầy ngải hay nên đến hỏi han để
trị cho dứt tai họa.
Trong một gia đình có một
người mắc bệnh nan y, khám phá ra quá trễ, Bác sĩ hết cách cứu chữa, như bệnh
Ung thư, bệnh AIDS. Người bệnh, gia đình người bệnh, bạn bè bà con hoang mang,
sợ hãi, buồn khổ. Có người mách chỗ linh thiêng đến lễ bái, chỗ đến xin bùa chú
hộ mạng, họ đều làm theo, nhưng bệnh nào tật ấy, tới ngày chết vẫn chết.
Có người làm việc nguy hiểm,
lo sợ không biết sẽ ra sao, nên đến lăng miếu xin xăm xin quẻ, nếu được tốt mới
làm, nếu gặp quẻ xấu thì thôi; hoặc có người coi bói coi tướng, thầy nói vận
hạn xấu phải cúng sao giải hạn, đi lễ chỗ này chỗ nọ; hoặc có gia đình bị chết
hai ba người liên tiếp thì hoảng hốt đi đón thầy bùa thầy ngải về ếm. Lại có
người thương cha thương mẹ chết khổ, coi bói toán, hỏi đồng cốt chỉ cho nơi âm
ti cha mẹ thiếu thốn khổ cực nên phải đốt nhà lầu, xe cộ, quần áo, tiền bạc
giấy để cha mẹ nơi cõi âm ti được hưởng, không còn nghèo thiếu nữa. v.v…
Tất cả những trường hợp trên
đây đều do sự lo sợ mà sinh ra mê tín dị đoan.
2). Mê tín do mong cầu:
Con người có đủ thứ mong cầu,
có mong cầu có thể đạt được, nhưng có những mong cầu không thể đạt, quá tầm
tay. Những mong cầu quá tầm tay của mình, thường hay tìm cách này, nghĩ cách
khác để cố làm sao đạt được. Dù đạt được hay không, cũng cố tìm cách, do đó dễ
đi vào mê tín.
Như người có con đi thi hay
làm ăn buôn bán, bèn mua hương hoa quả và chút tiền đến lễ Phật tại một ngôi
chùa nọ cúng lễ cầu Phật phù hộ cho con thi được đậu hay buôn may bán đắt, như
vậy thấy rõ lòng tham, bỏ ra một ít lại muốn được nhiều; khi cầu được việc thì
mừng vui khen ngợi. Lần khác có việc cầu lại làm giống như thế, nhưng nếu không
được như mong đợi, sinh tâm mất tin tưởng, đi tìm chùa khác hay đền, lăng, miếu
có người nói linh thiêng, từ đó đưa người Phật tử dần dần đến mê tín.
Một người khi đang làm ăn buôn
bán bình thường, nhưng lại muốn biết tương lai có khá hơn không, lại nghe người
ta nói có ông đồng bà cốt nào đó nói rất trúng. Họ liền đến hỏi han, chỉ bỏ ra
một chút tiền mà biết được việc làm ăn của mình thì hay biết mấy, nên chỗ ông
đồng bà cốt người ra kẻ vào tấp nập.
Có người đồn ông nọ, bà kia
coi bói coi bài, coi tướng tử vi hay lắm, nói đúng mọi chuyện; chỉ phải bỏ ra
ít tiền mà biết được tương lai, thật hay biết bao; những người đang làm việc cho
chính quyền, những người dân cử v.v…muốn biết tương lai công danh sự nghiệp đến
coi cho biết hậu vận, nên thầy bói thầy tướng sống khoẻ.
Lại có người buôn bán lặt vặt
muốn mau giàu, có học sinh hoặc sinh viên muốn đậu, muốn được vào ngành mong
muốn, không tin vào sự làm ăn, không tin vào khả năng học hành của mình.
Nghe
nói lăng nọ, miếu kia thiêng lắm liền đến lễ bái cầu xin, xin xăm xin quẻ hỏi
thăm thần thánh, làm cho kẻ buôn thần bán thánh hưởng lợi tiền cúng thoải mái.
Tất cả những việc làm trên thiếu căn bản giải thích, đều là mê tín dị đoan cả.
III). Cách trị mê tín:
Là con người, không ai không
có sợ hãi, không ai không có mong cầu, càng sợ hãi, mong cầu nhiều chừng nào,
càng dễ rơi vào mê tín nhiều chừng ấy; ngay cả những người chống đối mê tín
cũng chưa chắc họ là người không mê tín hoàn toàn, vì sao? Vì khi chưa gặp việc
thì họ nói hay, nhưng khi gặp việc kinh hoàng sợ hãi, cầu mong tai qua nạn khỏi
không được đến nỗi tuyệt vọng rồi, dù người có kiến thức rộng, người có bằng
cấp này nọ, cũng vẫn rơi vào mê tín.
Thí dụ: trong một gia đình hai vợ chồng đã lớn tuổi, có một người
con duy nhất ở tuổi tráng niên khoảng trên ba chục tuổi, bỗng nhiên người con
này mắc bệnh nan y vô phương cứu chữa; sự việc xẩy ra như thế, làm cho mọi
người trong gia đình lo sợ khủng khiếp, bối rối khổ sở vô cùng. Khi đó có người
mách bảo, người vợ đi coi thầy bói thầy tướng, đi hỏi ông đồng bà cốt, đi lễ
lăng nọ miếu kia, người chồng vẫn im lặng thuận theo không mở miệng nói năng
chi hết. Bởi vì sự sợ hãi, sự mong cầu muốn cho người con được tai qua nạn
khỏi, nên mê tín dễ hoành hành. Tưởng rằng đó là cái phao cho người sắp chết
đuối bám vào; do đó, sự mê tín là một bệnh, nó đã nằm sẵn trong mỗi con người,
khi gặp sự việc sợ hãi mong cầu xẩy ra, nó mới xuất hiện.
Muốn trị bệnh mê tín, phải có
thần dược của Phật pháp mới trị được, nếu thực hành lời dạy của Phật sẽ trừ
được bệnh mê tín như sau:
1). Cách diệt trừ mê tín thứ nhất:
Học hỏi tìm tòi thuyết nghiệp
báo nhân quả cho rõ ràng suốt thong, người đời thường nghi ngờ nhân quả vì họ
không nhìn thấy trước mắt, họ lại mong cầu quả không tương xứng với nhân. Họ mơ
ước có quả ngoài tầm tay của họ, nên đã đưa đẩy họ đi đến mê tín. Nếu mọi người
biết rõ ràng như thật rằng nhân nào quả ấy, mọi sự thành công hay thất bại đều
do nguyên nhân tốt hay xấu tạo nên, và cứ tạo nhân lành sẽ được hưởng quả tốt
mai hậu. Nếu mọi người hiểu được rằng cái quả tốt hay xấu mà họ có ngày nay là
do đã gây tạo ra từ trước, tin như vậy, sẵn sàng nhận lãnh, không mong cầu,
không lo sợ, và bình tĩnh nhận quả. Quả tốt không kiêu hãnh, quả xấu không sầu
khổ, sống tự tại an nhiên làm các điều tốt lành.
Mọi sự trên đời không phải
ngẫu nhiên mà có, không phải do một thần linh nào ban phát hay thưởng phạt mà
do nhân chúng ta đã tạo ra từ trước; khi nhân duyên đầy đủ quả thành hình,
không phải cầu xin lạy van mà có quả tốt đến, không phải xua đuổi nài xin mà
quả xấu chạy đi.
Bởi vậy, bậc tri thức sợ gây
nhân ác chứ không sợ quả xấu, còn phàm phu sợ quả xấu mà quên sợ gây nhân ác;
cầu xin được ban phúc lành, nhưng chúng ta lại quên thi ân bố đức cho người
khác. Cầu mong quả tốt, nhưng chúng ta lại không muốn gây nhân lành; sợ quả
xấu, nhưng chúng ta lại hay suy nghĩ, nói năng, và làm những việc không đẹp
không hay, thì cầu vô ích, lo sợ lại càng buồn khổ thêm.
Nếu hiểu rõ nghiệp báo nhân
quả rõ ràng rồi, chúng ta can đảm nhận quả khổ không sợ hãi buồn phiền, mình
làm mình chịu, còn cầu xin cái gì, đâu cần hỏi han ai nữa; được như vậy, mê tín
dị đoan sẽ tiêu tan.
2). Cách diệt trừ mê tín thứ hai:
Nếu học Phật pháp căn bản đầy
đủ rồi, chúng ta sẽ thấy rõ từ người đến vật đều do nhân duyên kết hợp mà
thành. Vạn vật do nhân duyên hợp lại mà có, hết nhân duyên thì tan rã; những
thứ ấy đều không có chủ thể, nghĩa là một mình nó không thể tự tồn tại được, mà
sự còn của nó phải dựa nhờ vào thứ khác mới tồn tại được. Thân tâm chúng ta do
sáu đại “đất, nước, gió, lửa, không, thức” hòa hợp với nhau mới sống còn được,
thiếu một trong sáu thứ này thì thân xác tan rã; tất cả vạn vật đều như thế cả,
chúng không có tự thể của chúng, nếu mỗi thứ có tự thể thì không cần các thứ
khác vẫn sinh tồn mới đúng.
Bản thể của mọi vật: đều không
có tự thể của nó, nên nó là không, thân tâm không phải là ta, mọi vật mọi người
không phải là của ta, là vô ngã, tất cả không thật, hư dối, nên không cần mong
cầu, không lo sợ. Không mong cầu không sợ hãi đâu còn tham sống sợ chết, đâu
cần hỏi thầy bói thầy tướng, đâu cần nhờ vả ông đồng bà cốt, đâu cần khấn lạy
van xin qủy thần; dùng trí tuệ này dẹp tan mê tín như mặt trời giọi sương mai,
như vậy chúng ta không còn bị trói cột bởi tà kiến dị đoan, và sống được yên ổn
tự tại vậy.
3). Cách trừ mê tín thứ ba:
Người Phật tử đã học biết
“nghiệp báo nhân quả” rồi, người Phật tử đã học biết “vạn vật do nhân duyên hòa
hợp mà có, không, vô ngã, vô thường” rồi; người Phật tử còn phải học biết những
gì để áp dụng tu hành, tu nhân gì được sinh về đâu. Tu như thế nào được sinh
lại cõi Người, sinh lên cõi Trời, hoặc không tu lại làm ác như thế nào bị đọa
Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, và tu như thế nào được giải thoát khỏi sinh tử
luân hồi?
1- Làm sao được tái sinh lại cõi
Người?
Đức Phật đã dạy người Phật tử tại gia thụ Tam quy
“Phật Pháp Tăng”, giữ Năm giới “Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm,
không nói dối, không rượu chè say sưa”. Chỉ có vậy thôi, chúng ta nếu muốn được
trở lại làm người kiếp sau, phải ráng gìn giữ theo lời đức Phật đã dạy như thế.
2- Làm sao đươc sinh lên cõi Trời?
Đức Phật dạy người nào muốn được
sinh lên cõi Trời, sống sung sướng lâu dài, phải thực hành đầy đủ mười điều
lành (thập thiện). Đó là ba điều về thân “Không sát sinh, không trộm cướp,
không tà dâm”, bốn điều về miệng là “Không nói dối, không nói hai lưỡi, không
nói lời thêu dệt, không nói lời độc ác”, và ba điều về ý là “Không tham lam ích
kỷ, không sân hận đố kỵ, không ngu si tà kiến”.
3- Làm thế nào bị đọa vào cõi dữ?
Ba cõi dữ là Địa ngục, Ngạ
quỷ, Súc sinh; Đức Phật dạy: “Người nào làm một trong mười điều ác (thập ác),
Mười điều ác là: “sát sanh, trôm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu
dệt, nói ác, tham lam, sân hận giân thù, ngu si tà kiến”; nếu không có nhân
lành khác làm triệt tiêu việc ác ấy, chắc chắn sẽ đọa vào một trong ba cõi dữ.
4- Làm sao thoát khỏi sinh tử luân
hồi?
Đức Phật dạy vô số pháp môn
tu, Phật tử nào tu, chỉ cần áp dụng thực hành một pháp môn là đủ để thoát khỏi
sinh tử triền mien; nhưng trên nguyên tắc căn bản, tất cả mọi người tu hành đều
phải tôn trọng mười điều lành trong khi tu hành, mới mong đạt được mục đích
mong muốn.
Thí dụ, người niệm Phật A Di Đà tu
pháp môn Tịnh độ, để được sinh về cõi cực lạc của đức Phật A Di Đà khi qua đời.
Trong khi tu niệm phải thực hành đầy đủ tất cả những gì quy định cho pháp môn
Tịnh độ, còn phải giữ gìn mười điều lành nữa, chứ không phải chỉ cần niệm Phật
mà không cần để ý đến mười điều lành; những người tu các pháp môn khác cũng
tương tự như vậy, mới có kết quả chắc chắn được.
Như vậy, chúng ta đã biết rõ
ràng và yên tâm tu tập pháp lành, và bóng dáng của người Phật tử lúc đó có một
cuộc sống tươi mát tự tại. Việc gì đến chúng ta sẵn sàng nhận cho dù tốt hay
xấu, cũng không làm tâm ta rộn lên, và như vậy sự mê tín chắc chắn không còn
một tí ảnh hưởng nào trong tâm người Phật tử nữa.
IV). Đối phó nguy nan
trong đời sống:
Người Phật tử gặp hoạn nạn
phải làm gì? Thí dụ trong gia đình mọi người đang sống yên vui, bỗng nhiên có
một người bị bệnh nguy hiểm, phải làm sao? Trước hết mọi người trong gia đình
phải bình tĩnh, nhận định phân tích, tìm nhà thương, Bác sĩ chuyên môn giỏi về
bệnh ấy, để khám xét định bệnh cho rõ ràng. Mọi người nên an ủi người bệnh cho
vững tinh thần, không lo sợ sẽ ảnh hưởng tốt cho việc chữa trị. Phải nghe lời
Bác sĩ trong việc thuốc thang, ăn uống, kiêng cữ. Phải nhận ra việc bị bệnh là
do nguyên nhân gì? Nguyên nhân gần như hút thuốc, uống rượu, ăn uống v.v…Nguyên
nhân xa như đã có người trong huyết thống bị bệnh ấy v.v…
Điểm căn bản của Phật giáo cần phải
hiểu biết nghiệp báo nhân quả từ nhiều đời nhiều kiếp tích chứa đến ngày nay
mới phát ra.
Nhận biết như thế, sẽ yên tâm, bớt
đi sự lo lắng, vì có lo lắng cũng không lợi ích gì hơn là một mặt chữa trị, một
mặt làm việc lành, như phóng sinh, bố thí, ăn chay, niệm Phật Dược Sư Lưu Ly
Quang, để có thể đưa tới việc gặp thầy gặp thuốc. Nếu bệnh khám phá ra quá trễ,
không thể qua khỏi nguy nan, người bệnh phải hiểu lẽ vô thường, có nhân duyên
hòa hợp mới có đời sống, hết nhân duyên sẽ tan rã thành không, vô ngã, thân
chẳng phải là ta, chẳng có cái gì là của ta; người bênh suy nghĩ như vậy, quán
chiếu như vậy sẽ đi vào định tâm, được giải thoát. Nếu không làm được như thế,
bệnh nhân nên chuyển qua niệm Phật A Di Đà, để khi chết được nhẹ nhàng sinh về
cõi cực lạc.
Trong khi bệnh như thế, tuyệt
đối không nghe người nói lời tà mị, đi coi thầy coi bói, hỏi đồng hỏi cốt, đeo
bùa mang phép, giết hại sinh vật cúng ma vái qủy; lại càng không nên nghe lời
dụ dỗ của người khác bỏ đạo Phật theo họ sẽ được vị thần linh nào đó có phép
cứu khỏi bị chết; đó chỉ là những lời lừa bịp không khác gì thầy bói, thầy
tướng, đồng cốt, cùng là một thứ mê tín như nhau, nhưng dưới một hình thức khác
mà thôi.
Những người đang trong
hoạn nạn lo sợ cái chết gần kề dễ bị lừa dối đã từng xảy ra; thương thay những
kẻ làm việc dối gạt người sẽ bị quả báo đọa địa ngục khi chết, không sao tránh
khỏi!
Nên nhớ, trong
Bát Chính Đạo, về phần Chính Mệnh, đức Phật khuyên người Phật tử không nên hành
nghề tà thuật, bùa chú v.v…để sinh sống là bởi lý do đó.,.
Chính Ngữ
Hằn sâu trong tâm thức người Việt, Đức
Phật hiện lên như một vị thần có nhiều quyền năng, thần thông quảng đại, có thể
ban phúc, trừ họa cho bất kỳ người nào. Hình ảnh đó được cụ thể hóa bằng hình
tượng ông Bụt trong các câu chuyện cổ tích; là hình ảnh Phật Tổ Như Lai toàn
năng, tài giỏi hơn cả Ngọc hoàng trong tác phẩm văn học được rất nhiều thế hệ
người Việt Nam yêu thích là Tây du ký. Sự hình tượng hóa Đức Phật một
cách sai lệch như vậy, vô hình trở thành động lực thôi thúc người ta đến chùa
với tâm cầu xin.
Trước Tam bảo, người ta lạy lục cầu xin:
xin cho tai qua nạn khỏi; xin cho giàu sang phú quý; xin tiền tài, xin địa vị…
Họ mang theo rất nhiều lễ vật, sì sụp khấn vái, cầu xin. Khắp nơi trong khuôn
viên chùa chỗ nào cũng thấy cắm nhang đèn, tiền rải khắp nơi; lò hóa vàng rừng
rực cháy mang theo muôn vàn lãng phí. Cảnh chen chúc, giẫm đạp nhau ở cửa thiền
để được làm lễ cầu an, giải hạn trong dịp đầu năm không còn là chuyện lạ.
Trong tình hình đó, đáng lẽ đội ngũ Tăng
Ni ở các ngôi chùa cần phải hướng dẫn, chấn chỉnh lại nhận thức sai lệch của
người dân, của Phật tử. Tuy nhiên, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng,
vì lòng từ bi mà nhiều ngôi chùa, nhiều nhà sư lại dễ dãi chấp nhận việc người
dân, Phật tử đến chùa chỉ để cầu xin. Hình ảnh một số nhà sư cúng sao giải hạn,
gieo quẻ âm dương, chọn ngày lành tháng tốt đã và đang làm cho đạo Phật dần dần
đậm màu sắc mê tín.
Để trả lại thanh tịnh cho chùa chiền,
giúp chúng sinh nhận thức rõ về giáo lý và phương pháp tìm an lạc ngay trong
cuộc sống, cần có một sự đổi thay căn bản về nhận thức. Trước hết là nhận thức
của Tăng Ni, Phật tử. Bởi xã hội nhận biết đạo Phật thông qua hoạt động của đội
ngũ Tăng Ni, Phật tử; cuộc sống thường ngày của Phật tử là tấm gương phản chiếu
tư tưởng Phật giáo đến cộng đồng.
Chùa là nơi hoằng pháp. Vậy sư trụ trì
và đội ngũ Tăng Ni phải là những người thầy trong lĩnh vực truyền bá giáo lý
của Phật. Những tủ kinh sách Phật giáo phải được trưng bày ở nơi dễ thấy, dễ
lấy. Sách về đạo Phật cần được đổi mới, được dịch và viết ra theo ngôn ngữ
đương đại, dễ hiểu, dễ thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. Vào những ngày lễ -
Tết, các Tăng Ni phải thuyết giảng giáo pháp hướng dẫn tu học cho những người
muốn đến chùa học hỏi Chánh pháp.
Đức Phật nói: “Tin Ta mà không hiểu Ta là
phỉ báng Ta”. Việc xem Đức Phật như một vị thần chuyên ban ơn, giáng họa; coi
chùa chiền như một địa điểm cầu xin phước lộc đang làm cho đạo Phật trở nên xa
lạ với tinh thần minh triết do chính Đức Phật đã dạy. Thiết nghĩ, chư vị Tăng
Ni, Phật tử hãy cùng chung tay, góp sức trả lại giá trị đích thực cho ngôi
chùa, trả lại sự tôn kính cho Đức Phật mà bao đời nay nhân dân ta hằng ngưỡng
mộ.