Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 2)
Trên
thế gian này, đạo Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử,
khởi thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh
mẽ tại Mỹ châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học
hiện nay, dân chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin
tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà thôi.
Cùng với sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc
ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều
khó khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng
đáp ứng tối đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con người.
Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng
được những nhu cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con người.
Cho
nên, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu
giáo lý của đạo Phật và thực hành những lời dạy của Đức Phật trong đời
sống hằng ngày. Từ đó, họ tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong
đời sống đầy dẫy những bất trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập
một cách tích cực, dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ
viết sách, dịch kinh Phật Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết,
để được giác ngộ và giải thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà thôi.
* * *
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai vậy".
Nghĩa
là nếu chúng ta đến với Như Lai, tức là đến với Đức Phật chỉ bằng niềm
tin, chỉ biết tin tưởng Đức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng,
có thể ban phước như lời cầu nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng
ta và gia đình một cuộc sống bình an, như ý, mà không chịu học hiểu giáo
lý, tìm hiểu những lời dạy của Đức Phật, để áp dụng vào đời sống hằng
ngày, tức là chúng ta phỉ báng Đức Phật. Tại sao vậy?
Bởi
vì, nếu cầu nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện, không
công hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc
không có được đáp ứng gì cả, chúng ta sẽ nghĩ là Đức Phật không linh
thiêng, niềm tin không còn, dễ theo ngoại đạo. Chắc
chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo
trên thế gian này đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn
tầm thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người
khác nhục mạ, vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết
thê thảm như một tội phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được
như ý, như lời cầu nguyện, khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào?
Cuộc đời của Đức Phật cũng gặp những chuyện như vậy, cũng trải
qua các giai đoạn của cuộc sống như mọi người khác trên thế gian: sanh,
già, bệnh, chết.
Như vậy, Đức Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban phước theo lời cầu nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai thờ phượng chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A Di Đà Phật, hay đọc vài bài chú chăng?
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp".
Nghĩa
là tất cả chúng ta hãy tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường
tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của
mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để
được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Đức Phật Thích Ca đã trải qua
những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề, trên thế
gian này. Sau đó, Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và
hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng
gió khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất
cả chúng sanh khác.
Vì tâm đại từ đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức Phật đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy trong nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường, biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên trì, đều được giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
--
Toàn bộ Chánh Pháp của Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc
đời, nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn
tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.
-- Trong kinh sách gọi đó là "Tứ Diệu Đế", gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.
-- Đó chính là cách Đức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh vậy.
Do đó, chúng ta hãy tìm hiểu:
Tứ Diệu Đế là gì?
Đức Phật đã giác ngộ điều gì và giải thoát như thế nào?
* *
*1) Điều trước tiên Đức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai cũng đều công nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui trong cuộc sống thực là hiếm hoi.
Trái lại, những điều phiền não, đau khổ, bất trắc, bất như ý, bất toại
nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc của những
người nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi người trên khắp
thế gian, không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu, địa vị, học
thức, giàu nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay thường
dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người trên thế
gian đó là những gì?
--
Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội
tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân
hồi.
-- Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Trong kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
-- "Cuộc đời là biển khổ. Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn".
Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ, khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn biển lớn. Con người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua trong cuộc sống, do lòng tham lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt lìa đời, cũng chưa giác ngộ được. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
* *
*2)
Đạo Phật nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm
tiêu cực, bi quan, yếm thế, chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định
như vậy để thức tỉnh, để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm
trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật
chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để
tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó,
Đức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau. Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:
-- "Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
-- Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời".
Khi
nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính
gây ra khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc
sống hiện tại.
Thế nào là "chấp ngã"?
Chấp
ngã có hai phần: vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp cái
thân xác tứ đại mấy chục ký lô này là "mình". Về tinh thần, chúng ta
chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường là chính "mình".
Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta liền chỉ vào thân mình và
trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác thân tứ đại giả tạm này đâu phải
là "mình". Cái xác thân tứ đại bao gồm những chất: đất, nước, gió, lửa,
tụ hội với nhau trong một thời gian, từ khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi
chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, thì ô hô tử vong! Thời gian
đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Người đời thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh, định mệnh.
Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi. Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.
Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi. Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.
Chúng ta đã hiểu cái thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng không phải là "mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy nghĩ rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường, muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính toán, suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh tị, đố kyﬠmuốn thấy người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?
Dù là khởi tâm thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được, thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Đàng nào chúng ta cũng đau khổ cả! Lòng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm tham ái, chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Thế nào là "chấp pháp"?
Chấp pháp cũng có hai phần: vật chất và tinh thần.
**Về phương diện vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc, mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất. Về phương diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên mình, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta sẽ đau khổ!
**Về phương diện vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc, mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất. Về phương diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên mình, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta sẽ đau khổ!
**Về phương diện tinh thần,
chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là đúng, việc mình làm là
đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là sai. Chúng
ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như mình,
nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta không thấy những lỗi lầm, sai trái của mình, cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ thấy lỗi lầm của người.
Thí dụ trong gia đình, nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ biết la mắng con cái vì chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến của chúng, thì người cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm cho mọi người trong gia đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền não và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xã hội, cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không nhiều thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.
Trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng ta phải biết quên mình vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu tâm ý quá ích kỷ, chỉ biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình, cái gì cũng vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau mà thôi. Muốn có một gia đình hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích cá nhân, hòa hợp với nhịp sống chung của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu.
Trên thế gian này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh lương nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn, giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen mình khinh người, là những "chuyện như thị", tức là những sự thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được. Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ nhiều lắm!
Chúng ta thường mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng gió. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, thì cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, thì việc khác lại xảy đến. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, bình tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
*3)
Sau khi chỉ rõ nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức
Phật chỉ bày cảnh giới niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh
tịnh, an lạc và hạnh phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời
sống hằng ngày.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
Chư hành vô thường.
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ.
Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa
là mọi sự mọi việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại vĩnh
viễn, gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ
diệt đi, không có gì là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện
buồn có đến rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc.
Chuyện vui hay buồn đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an. Tâm
của chúng ta dù khởi niệm từ bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng lặng
đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh diệt. Chỉ có khi nào các tâm niệm
sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất rồi, không còn nữa, chúng ta sẽ
được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi diệu.
* Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "nhất tâm bất loạn".
* Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người có tâm "bất tùy phân biệt", của người không còn tranh chấp thị phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.
* Trong Kinh Tịnh Danh,
hay Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được
"pháp môn bất nhị", của người không còn kẹt trong vòng đối đãi nhị biên,
không còn thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác
kiến, đoạn kiến, thường kiến.
* Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "thân kim cang bất hoại", của người không còn kẹt vì các hình tướng giả tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng".
*
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt
được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm", hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến ngũ
uẩn giai không".
* Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền".
Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không còn nữa, thì cảnh giới
tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào
mây đen tan mất, thì trăng sáng hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào
phiền não và khổ đau hết, thì an lạc và hạnh phúc hiện tiền. Nói một
cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm hiện tiền". Thực là đơn giản, dễ
hiểu như vậy.
Cảnh
giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc
bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ
thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì
người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Cảnh
giới này không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để diễn
tả trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó, thì
tự người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới
này còn gọi là "đạo". Sách có câu: "đạo bất khả ngôn thuyết".
Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ của thế gian này để diễn tả, để chỉ
bày, để nói về "đạo". Sách cũng có câu: "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là
khi nói lên bằng ngôn ngữ thế gian thì đã mất "đạo" rồi.
*4) Đến đây, Đức Phật chỉ dạy những phương pháp, những
pháp môn để đạt được "đạo", tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch
diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không
còn khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao
cho nó lắng xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an trụ
được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Toàn bộ giáo pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có:
tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo.
Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ bằng niềm tin đơn giản mà thôi.
* *
* "Tứ Niệm Xứ"
là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn
luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ nhớp, những
thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng
thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt, thì tức
nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm ý con
người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp
chặt làm chi cho khổ! Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi
sự mọi việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ
những quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời
đại nào đó mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời
gian, không đúng với mọi không gian.
* "Tứ chính cần"
là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một cách chân
chính. Đối với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt hẳn, đối với việc
bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện chưa sinh, làm
cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng.
* "Tứ như ý túc"
là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng ta đến chỗ như
ý muốn, thành tựu viên mãn. Đó là: dục, cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng
ta phải có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự giải thoát, chúng ta
phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta phải khắc chế tâm
niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác ngộ
chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
* "Ngũ căn"
là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Đó là: tín, tấn, niệm,
định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc nơi
Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt mỏi,
luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự bình
thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy
xét mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan.
* "Ngũ lực"
là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là
do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn
lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san bằng những trở
ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi nhớ những
thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư tưởng, và do
tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử luân
hồi.
* "Thất bồ đề phần"
còn gọi là "thất giác chi", là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ
giác ngộ. Đó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định,
xã. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của tất cả
các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả các nghiệp bất thiện,
thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với
mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt gì cả, để tất cả
chúng sanh đều hỷ kiến.
Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước thiện. Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại. Xã là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.
là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo
Phật: giác ngộ và giải thoát. Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
* Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2) Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
3) Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
4) Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người. Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
5) Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
6) Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
7) Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh, cãi vã. Chư Tổ có dạy:
8) Chánh định là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.
Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng hết những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác ngộ và giải thoát.
Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả. Chư Tổ có dạy:
Có câu chuyện giáo lý tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
1) Chánh kiến
là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý
nhân duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này
không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên
kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh kiến là người
thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực".
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực, chứ không phải chỉ đến để mà tin!" Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:
* Mọi sự việc đều có nguyên nhân.
Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên, chúng ta biết ngay là do hạt nhân
nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có. Khi được bình an, sung sướng, chúng
ta hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là
đang đền trả quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do
chúng ta gieo trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời
nào ban phước giáng họa bừa bải cả. Đó là lý nhân quả.
* Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2) Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
--
"Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì
người có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên
nói, tất cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
--
Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng
với lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân
và cho mọi người".
Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu".
Nghĩa là chúng ta hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học
hỏi, rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, trước
khi thực hành, tu tập theo.
3) Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
4) Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người. Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng Phật vãng tây phương".
Nghĩa
là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng ta
theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5) Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
6) Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
"Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo".
Trong
kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng mãnh,
vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.
7) Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh, cãi vã. Chư Tổ có dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa
là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong tâm, con
người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa.
Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì,
đang nói gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết
ngay mỗi khi vọng niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống
theo lời Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là với Bản
Tâm Thanh Tịnh.
8) Chánh định là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.
Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng hết những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác ngộ và giải thoát.
Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả. Chư Tổ có dạy:
"Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách".
Nghĩa
là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát,
chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp
cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm
sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu mù, không
nghiên tầm giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người khác tu
tập, thì quả là đại họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử
nhục. Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói
suông, để thảo luận, để tranh cãi. Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn
kiến thức, mà không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì
cũng chỉ có thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái
đãy, cái túi đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng như
những người đếm tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ, trọn
không có tiền và cũng không có bò.
Có câu chuyện giáo lý tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế
mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai
qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm
luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không
được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính
chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người chúng
ta vậy. [ ]
BỘ SÁCH "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO" TẬP 1,2,3.
MỤC LỤC TRỌN 3 TẬP
LIÊN LẠC TÁC GIẢ:
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016
Email: cutranlacdao@yahoo.com