TKN Thích Nữ Chân Liễu
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt, xuyên qua kinh nghiệm bản thân chứng đắc giác ngộ của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và chư lịch đại Tổ Sư đắc đạo.
Đức hạnh từ bi hỷ xả cao cả, cung cách thuyết giảng và hành xử của Đức Phật vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị biên, phá bỏ mọi chấp thủ, giải tỏa mọi phiền não, chế ngự được tâm lý sôi nổi và kích động đầy sai lầm của con người. Lời giáo huấn của Đức Phật từ bi lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không có tham ái ô nhiễm, dễ điều phục và luôn tỉnh giác. Vì vậy đạo Phật sẽ mãi mãi thăng hoa, tồn tại và tiếp tục được sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại cho nhiều thế hệ sau nữa.
Đức Phật đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni nước Ấn Độ. Phật tử Việt Nam ở xa xôi ngàn dặm mà lại có duyên hạnh ngộ với Phật Pháp, còn một số rất nhiều con người sanh sống ngay tại Ấn Độ, nhưng hoàn toàn không biết gì về Phật và cũng không nghe được lời giáo huấn của Ngài.
Hoàng đế Võ Tắc Thiên là vị nữ hoàng Trung Hoa đã phải thốt lên rằng: “Bá Thiên Vạn Kiếp Nan Tao Ngộ”, trăm ngàn muôn kiếp không dễ gì mà gặp được. Một sự kiện chân thật, vô cùng hiếm hoi quí giá đến bực nào để có thể giác ngộ và hiểu được lời Đức Phật dạy.
ĐẠO PHẬT BÌNH ĐẲNG VÀ TỰ DO
Đạo Phật bình đẳng và tự do chọn lựa các pháp môn tu, miễn sao hợp với căn cơ, hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng người. Không có sự cưỡng ép hay áp đặt hù dọa, hoặc phân biệt giai cấp chủng tộc trong Phật giáo chân chánh. Trong đạo Phật có nhiều pháp môn tu, ba pháp môn tu điển hình và thực hành nhiều nhất có thể kể là: Tu thiền, niệm Phật và trì chú. Tất cả các pháp môn đi từ nhiều con đường, nhưng đều nhắm mục đích cứu cánh Đức Phật dạy là: Giác Ngộ và Giải Thoát. Giác Ngộ Chân Lý và Giải Thoát Sanh Tử.
1.- Tu thiền: Hành giả tu thiền thực tập chánh niệm, oai nghi trong sự đi, đứng, nằm, ngồi, chung qui là trụ tâm nơi hiện tại, loại bỏ vọng tâm, thanh tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Điều phục tâm bình khí hòa, bình thường tâm là đạo.
2.- Niệm Phật: Hành giả tu hướng tâm theo Phật, niệm Phật cầu vãng sanh, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật, niệm thiện giới, loại bỏ niệm bất thiện, niệm ma, an tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Chánh tâm biệt niệm, tịnh tâm thì có tịnh độ.
3.- Trì chú: Hành giả trì chú, đi đứng nằm ngồi đều trì chú, trụ tâm nơi thần chú, loại bỏ tâm lăng xăng vọng động, tập trung vào sự tỉnh thức không bị mê loạn, không cần phải đếm mới là trì, phương tiện của giới định tuệ. Thanh tịnh thân, tâm sáng trí thông.
Người thấm nhuần chánh pháp
Thanh lọc thân và tâm
Sống trong niềm hạnh phúc
Thiền định thật an lạc
Như kẻ tìm kho báu
Được lợi lớn cho mình
Hiền trí điều phục tâm
Tham ái chẳng mong cầu
Như tảng đá kiên cố
Bão tố không lay động.
ĐẠO PHẬT THỰC TẾ VÀ CHÂN THẬT
Một Phật tử giác ngộ Phật tâm Phật tánh chân thật sáng suốt, nhận biết giữa đúng sai, thiện ác và không bị mê lầm điên đảo chấp chặt thành kiến, nhận sự ảo mộng là thật.
Đạo Phật làm biến đổi sự suy nghĩ vô minh của người kiêu mạn, nóng nảy, cố chấp. Giáo lý đạo Phật giúp thấy rõ bản chất thực tế của luật vô thường và luật nhân quả chi phối con người trong nhiều đời kiếp sanh lão bịnh tử.
Lời dạy của Đức Phật thực tế vô cùng, thích hợp mọi hoàn cảnh mọi trình độ và căn cơ của chúng sinh. Thân tâm bớt loạn động, bớt phiền não, dứt nghiệp chướng, thì điều phục được tâm tham, tâm sân, tâm si, chủ động được “thân khẩu ý”.
Giới-Định-Tuệ. Giữ gìn tịnh giới, tập tu thiền định, phát sanh trí tuệ. Những việc khó có như rùa mù nổi lên mặt nước gặp bọng cây, nhưng được thân người lại có nhiều phước duyên nghe được giáo huấn Phật dạy qua kinh điển, cố gắng hành trì thì cũng sẽ thắp sáng được ngọn đuốc trí tuệ.
1. Hiểu được kinh Phật là khó.
2. Bần cùng bố thí là khó.
3. Bỏ danh sắc rất là khó.
4. Nhục không sân là khó.
5. Quyền thế không khinh người là khó.
6. Tâm hành bình đẳng là khó.
7. Không dính cảnh thị phi là khó.
8. Gặp thiện tri thức là khó.
9. Chánh tín học đạo là khó.
10. Bỏ thân hành đạo là khó.
Hằng ngày trong cuộc sống, nơi công sở nếu mọi người biết áp dụng Phật pháp với lòng bao dung, tâm hỷ xả, không ngã mạn cố chấp, bình tỉnh, cư xử tốt với đồng nghiệp, bớt ganh tị đố kỵ, bớt hơn thua, thì bớt phiền não và sẽ cải thiện được môi trường sống, xung quanh trở nên thân thiện tốt đẹp hơn.
Trong mọi tình cảnh khó khăn nào, nếu thực hiện sự chánh niệm tỉnh thức, tâm được an thì sự thông minh sáng suốt, năng lực về tinh thần tăng gấp bội, công nhân viên chức sẽ cống hiến được nhiều sáng kiến tiến bộ, việc làm bền vững hoàn hảo, đem lợi ích nhiều cho bản thân, gia đình và cho xã hội.
Tóm lại, Phật giáo không hứa hẹn là có thể thỏa mãn khát vọng hạnh phúc vĩnh cửu phàm tục chứa đầy nghiệp báo cho riêng bất cứ ai. Nhưng kết quả từ giáo lý thực tế và chân thật của đạo Phật luôn luôn đem lại hòa bình hạnh phúc và an lạc cho mọi người. Sự bình an hạnh phúc bền vững chỉ tìm thấy ở tâm thiền định, thanh tịnh và trí tuệ sáng suốt của người đã đạt được giác ngộ.
Nếu như xã hội có nhiều người tu theo lời Phật dạy, phát tâm thiện lành, lòng tràn đầy nhân ái của bậc thánh nhân và bồ tát, cõi thiên đàng cực lạc tại thế gian, ngày an lành đêm an lành, giấc ngủ được bình yên, thánh thiện. Qua nhiều niên kỷ và thời đại con người đã có dịp kiểm nghiệm vai trò tôn giáo của đạo Phật qua thực tế áp dụng trong đời sống hằng ngày. Những vị đắc quả A La Hán sinh ra đời thời Đức Phật, bản thân cũng tự giác ngộ được những tri kiến như Phật, để lại tam tạng kinh điển dạy người đời sau đường lối tu chứng.
Khi liễu ngộ được sự nhiệm mầu vi diệu của Phật Pháp, con người dĩ nhiên đã không ngớt lời tán thán Đức Thế Tôn là bậc Thầy chỉ đường cho người chưa có phương hướng trong cuộc sống, đem đèn sáng vào trong bóng tối. Nói một cách khác, Đức Phật là một lương y đại tài, chữa được hằng vạn tâm bịnh khác nhau của chúng sinh.
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa.
***
Pháp Phật vi diệu lại cao sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy, chuyên tu học
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
TKN Thích Nữ Chân Liễu
CẦN
THƠ VIÊN PHỤNG
Pháp nghĩa cần phải học
Pháp nghi cần phải tỏ
Pháp vị cần phải thấm
Pháp thượng cần phải đạt.
***
Phật ngôn cần phải hiểu
Phật tâm cần phải ngộ
Phật cầu cần phải xả
Phật đạo cần phải thành.
Kính mời viếng thăm bài: "Như Giọt Nước Lá Sen"
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Thời gian qua thật nhanh, một lần nữa “Xuân Lạnh”
lại về trên đất nước Canada “Đất lạnh nhưng tình nồng ấm”. Một chút gió nhẹ, một
chút lạnh lạnh của mùa xuân cùng màu trắng tuyệt đẹp của hoa tuyết, người con
Phật mọi nơi quên lạnh, quên đi những bận rộn suốt một năm qua, tạm quên những
phiền hận toan tính, hân hoan tụ tập về chùa, hy vọng tìm lại sự ấm áp tình đồng
đạo, hay tìm kiếm một chút hương vị an lạc giải thoát của thiền môn.
Có những người trong đạo Phật theo truyền thống
chỉ đến chùa vào những dịp đầu năm mới, cầu phước cho mình và gia đình đầu năm
đến suốt năm bình yên, mong cầu tài cầu lộc dồi dào hoặc đền ơn Phật Tổ Bồ Tát
đã giúp gặt hái nhiều may mắn trong năm qua. Cũng có Phật tử đến chùa rất nhiều
lần trong năm, thường được xem như là những “Phật tử thuận thành” vẫn muốn cầu
nguyện và đền ơn.
Có vị vì thích công quả nấu cơm, quét dọn, cắm hoa, biết tụng
kinh và bái sám rất rành. .. Cho dù cái nhân duyên về chùa có khác nhau, nhưng
thiện pháp như tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, chay tịnh hay nghe thuyết pháp
trong dịp đầu năm mới cũng đều là một duyên lành cần siêng năng hành trì.
CẢM NHẬN ĐƯỢC TÂM Ý TRONG KINH
Mục đích và cứu cách của đạo Phật là con đường
thoát ra khổ nạn, Đức Phật mà chúng ta lễ lạy là Bậc Nhất Thiết Trí ( trí tuệ
cao tột nhất),như vậy duyên lành về chùa ngoài việc cầu phước còn phải thưa hỏi
tìm hiểu giáo lý phương cách phá trừ vô minh, mồi ngọn đuốc trí tuệ từ những lời
Phật dạy, thấm mhuần tâm ý câu kinh. Là người con Phật công phu thuần thành tụng
đọc khàn tiếng, lạy kinh đến thân xác rã rời mệt mõi, như vậy thật xứng đáng được
người thế gian ngưỡng mộ kính phục.
Nhưng ý thức mơ màng sự tự tôn trong hào quang giả tạo, thực tế thì muốn
chạy trốn hoàn cảnh, chạy trốn phiền não, né tránh tội lỗi bản thân, khi đó con
người thật sự khó hiểu và cảm nhận thấu suốt được tâm kinh, ý nghĩa kinh Phật dạy
gì?..Thì tụng kinh hành trì chỉ là sự vay mượn của bản ngã, dễ phát sinh ra nhiều
căn bịnh tự hào hơn thua, so sánh, khen mình chê người đưa người tu nhìn ra bên
ngoài nhiều hơn là tự soi rọi vào trong nội tâm. Khi nào thấy rõ con người thật
của chính mình xấu tốt ra sao, phát tâm sám hối chuyển đổi hướng thiện là đã có
được ánh sáng trí tuệ. Hạnh phúc và bình an thật sự chỉ hiện hữu khi nhận ra những
khổ đau, phiền não, giả danh, nhân ngã thị phi đều không có thật.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn một vị Tăng hiệu Pháp
Đạt khi đến lễ Lục Tổ khoe: “ Tôi đã tụng Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi”. Lục
Tổ bèn nói kệ dạy rằng:
Lạy vốn
phá tự kiêu,
Đầu sao
không sát đất,
Hữu ngã tội
liền sanh,
Quên công
phước thật lớn.
Người tên
là Pháp Đạt,
Siêng tụng
hoài không dứt,
Tụng không
theo âm thinh,
Minh tâm mới
gọi Phật,
Ngươi nay
bởi có duyên,
Ta mới nói
chân Pháp,
Tin chắc
Phật không lời,
Liên hoa
không do miệng.
Tâm mê
Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ
chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu
không rõ ý,
Kinh nghĩa
ấy thù ta.
Tăng Pháp Đạt nghe kệ xong, liền ăn năng sám
hối: “Đệ tử tụng Kinh nhưng chưa hiểu được nghĩa lý của Kinh, chỉ tụng theo văn
tự, tâm thường cao mạn cũng có chỗ nghi chưa thấu rõ, từ nay xin giữ hạnh khiêm
tốn. Kính xin Ngài thương xót lượt giải nghĩa lý trong Kinh”. (Kinh Pháp Bảo Đàn)
Thông
thường khi nhìn ngắm một bức tranh, đa số chỉ thấy được cái đẹp cái xinh tươi của
cây cảnh, hoa lá hoặc màu sắc rực rỡ một cách phiến diện hời hợt, ít ai cảm nhận
hay động tâm hiểu được ý nghĩa mà người họa sĩ muốn gởi gắm vào trong tranh. Cũng
vậy khi lễ Phật, tụng kinh người Phật tử có quan niệm tụng kinh phải thuộc
lòng, tụng kinh một ngày phải hai thời, ba thời hoặc công phu lạy Phật từng câu
từng chữ trong kinh, cầu nguyện thì phải thành tâm … thì mới đúng là nhà tu
chân chánh kính Phật trọng Pháp. Sau thời tụng kinh bái sám, xếp quyển kinh lại
ngay ngắn, đem lên cất vào kệ, xem như thời kinh hoàn mãn. Điều này không sai,
nhưng chưa đủ vì chỉ nhận được sự bình an tạm thời, có một ít thiện phước, tâm
ý là lời phật dạy chưa cảm nhận được, chưa thấy rõ mục đích cứu cánh và chân lý
đạo Phật.
Lắng tâm suy ngẫm hay làm thử con toán tính sổ
trong cuộc đời tu hành chúng ta đi về chùa tụng kinh tất cả là bao nhiêu lần,
bao nhiêu phẩm, bao nhiêu bộ kinh rồi hoặc đã thuộc nằm lòng rất nhiều bộ kinh Phật,
lạy quá nhiều lần hầu như không còn tính
được nữa?! Đa số người gặp cảnh bất như
ý, đi tìm quên trong thú vui thế tục, người có đạo tâm tìm nguồn an ủi nơi cảnh
chùa. Nhưng nội tâm vẫn còn bị tổn thương vì những hạt giống khổ đau phiền não chưa
thấy được phương cách để loại trừ nó. Ai cũng có tánh giác, nhưng do chúng ta
mãi hướng ngoại tìm cầu suốt cuộc đời, nên các vị Tổ thường nhắc nhở rằng: “Như người vác Phật tìm Phật, người cỡi
trâu tìm trâu”. Mãi mãi quẩn quanh trong vòng luân hồi sanh tử.
Dù tụng
nhiều kinh điển
Không thực
hành buông lung
Như trẻ đếm
bò người
Không hưởng
quả đạo hạnh.
(Kinh Pháp
Cú)
Nếu không tư duy suy ngẫm hiểu thấu đáo lời
Phật dạy trong từng câu kinh tụng đọc hằng ngày, thì sự tụng kinh phút chốc
thành vô dụng, thời tụng kinh trở thành ép xác trả nợ Phật, trả nợ thế gian
không ích lợi gì cho mình cả, chư Tổ thường quở trách rằng: “Tu như vậy là đang tìm sừng thỏ hay lông rùa”. Cho đến khi bỏ lại
xác thân phàm tục cũng khó mà thấy Phật. Như vậy ánh sáng từ câu kinh Phật ở chổ
nào? Thật sự khó mà thấy được. Nhưng nếu như vậy cảm thấy đủ để an lạc vài phút
giây ngắn ngủi thì “có thể” xem như hoàn mãn một thời tụng kinh.
Phật pháp
tại thế gian,
Mê ngộ có
chậm mau,
Bôn ba qua
một kiếp,
Người lỗi
ta không lỗi,
Bỏ đời đi
tìm thánh,
Sừng thỏ
kiếm sao ra.
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
Đức Phật dạy: “Cổ xe trắng tinh đẹp nhất có
thể ví như Niết Bàn. Các con tuấn mã ví như tin tấn và trí tuệ. Biết hổ thẹn và
sợ tội lỗi ví như cái thắng. Nhẫn nại và từ bi giống như áo giáp. Thiền định và
nguyện lực ví như bánh xe. Cuối cùng quả vị giải thoát là màu trắng tinh khiết
của chiếc xe đẹp nhất, vết bẩn không còn tồn tại vì được người phu xe siêng
năng, chuyên cần giữ gìn sạch sẽ”. (Kinh Tạp A Hàm)
Dù tụng kinh một lần, hai lần hay hằng trăm lần,
nhưng duyên sự đến chùa vì cầu khẩn, vì tìm kiếm danh lợi mà không mong cầu tu
học hay giác ngộ, thì chỉ phí đi thời gian của một đời người, sẽ không thấy được
ý nghĩa thâm sâu trong lời kinh Phật. Nhưng nếu chuyển tâm phàm phu ích kỷ trở
thành một hành giả trên đường đi tìm giác ngộ, quyết tâm mong thoát vòng sanh tử
luân hồi, một người con Phật đúng nghĩa, buộc chúng ta phải biết dụng tâm và
năng lực để thấy được ánh sáng trí tuệ từ
câu kinh Phật. Đó là cả một kho báu của người cha trưởng giả để lại cho người con cùng tử (trong kinh Pháp Hoa) có quyền thừa hưởng, chìa khóa kho
báu vô giá trong tay mà không bước thêm bước nữa để mở cánh cửa trí tuệ bát
nhã, con đường duy nhất đưa đến giải thoát.
Đức Phật là bậc đạo sư, kinh là những lời Phật
dạy, Ngài chỉ cho con đường vượt ra khỏi khu rừng vô minh tối tăm đầy cạm bẩy,
hành giả là người phải tự bước đi bằng chính đôi chân của mình. Sai lầm nặng nề
nhất là ngồi chờ kỳ nhân, mong cầu phép lạ. Ngài cũng là vị lương y đại tài có
thể chữa được hằng ngàn tâm bịnh cho chúng sanh và để lại hằng vạn toa thuốc trị
bịnh, chúng sanh cần phải uống và thực hành theo lời dặn, chứ không chỉ tụng đọc
mà có thể khỏi bịnh được. Lợi ích của Kinh Phật đưa con người từ phàm phu mê mờ
ích kỷ giật mình tỉnh giấc, ý thức được từ đâu sanh ra thế gian nầy, chết đi về
đâu? Giải đáp mọi nghiệp duyên xảy ra trước mắt, từ đó người tu chánh tín tự
chuyển mình, tự toàn thiện chính bản thân thì mới mong thấy con đường đạo.
Sống trong đời không lúc nào cũng có thãm đỏ
trải dưới chân cho chúng ta bước đi dễ dàng. Mà con người phải tự lo cho bản
thân có đôi giày an toàn vững chắc và trí tuệ chân chánh sáng suốt, để có thể
chống nổi với nghịch cảnh và vượt qua chông gai. Cũng vậy, người Phật tử dù xuất
gia hay tại gia đừng tự dễ dãi với chính mình, đừng để danh lợi lôi kéo vào con
đường mù mịt tối tăm không lối thoát. Niềm tin chánh tín vào lời dạy chư Phật
chư Tổ đã chứng đạo và luôn luôn chánh niệm dùng công phu “phản quan tự kỷ” dám nhìn lại
chính bản thân mình, là cơ hội để có thể tự khắc phục chuyển đổi phiền não của vọng
tâm nguyên nhân gây ra tội lỗi, thấy được thực tế rất chân thật “ta là ai? tốt xấu như thế nào?” để biết mà tu.
Tuy tụng
ngàn chương cú
Không hiểu
nghĩa ích gì
Đâu bằng
hiểu một câu
Nghe xong
liền ngộ đạo.
(Kinh Pháp
Cú)
Tóm lại, người tu thường hay có tâm phân biệt
cao thấp, tốt xấu, thiện ác, thánh phàm…mà sanh phiền não, đạo phật không phải
là thần quyền hay độc quyền vì vậy giác ngộ giải thoát cũng không dành riêng cho
một vị nào cả, đạo đi vào đời bằng sự bình đẳng tuyệt đối và sự chân thật vốn
có từ vô thủy của mọi người, nhờ ánh sáng từ những lời Kinh mà tự tu, tự cứu, tự
lực, tự giác mà thành chánh quả. Nhưng
cao cả đáng kính hơn hết của sự giải thoát hoàn toàn viên mãn là “Ngoài chẳng
nhận là phàm thánh, trong không trụ tự mãn, không chấp phước đức hay công đức”.
Khi đó trong đạo tràng lúc tụng Kinh chắc không còn phiền não vì người thỉnh
chuông không đúng lúc? Người dẫn mõ quá nhanh? Người ngồi kế bên thì giọng đọc
quá lớn!!...chỉ là những chuyện không đáng để bận lòng.
Một câu chuyện để suy nghẫm:
Ngày kia có một người Cha già vì duyên sự phải đi xa nhà một thời gian khá lâu. Trước khi ra đi Ông để lại cho hai người con 3 bức thư thật dài và đầy đủ, tất cả là những lời căn dặn dạy dỗ làm thế nào để sống an lành vui vẽ hạnh phúc với nhau khi không có Cha ở bên cạnh.
Người con thứ nhất, rất kính trọng Cha vội dán 3 bức thư lên tường, mỗi ngày đều tụng đọc đến thuộc nằm lòng, tốt hơn thế nữa anh còn siêng năng đọc một chữ, lạy một lạy, lập lại nhiều lần rất thành tâm.
Người con thứ hai, chậm rãi đọc lá thư và suy tư vận dụng sự thông minh sẳn có để tìm hiểu tâm ý của Cha muốn dạy những gì. Sau đó anh hiểu được ý nghĩa của 3 lá thư và một mực nghiêm túc thực hành tất cả lời Cha căn dặn dạy bảo. Bằng sự bình đẳng, lòng bao dung, dẹp tan cố chấp đầy phiền não của lòng tham sân si, chuyển tâm phục vụ lo lắng chăm sóc cho tất cả mọi người, buông bỏ bản ngã và sự ích kỷ cá nhân. Vì người không vì mình. Tạo được an lạc hạnh phúc trong đời sống như những gì Cha già mong mõi.
Qua câu chuyện trên, lòng kính hiếu với Cha
Lành như Đức Phật, chúng ta tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, còn phải học hiểu
tâm ý lời dạy Chư Phật, Chư Tổ giảng dạy được ghi chép lại trong Kinh. Thực
hành chánh niệm tỉnh giác, thanh tịnh tâm, trí tuệ sáng tỏ thấy được việc làm có
ý nghĩa, hành trì tùy thuộc vào Tâm hay vào Tướng.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 1 - 28
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 25
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
NĂM ĐIỀU QUAN
TRỌNG CỦA ĐẠO PHẬT (CON TIN TRONG CHÙA)
BẤT TÙY PHÂN
BIỆT- CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT
HIỆN TƯỢNG MÊ TÍN TRONG CÁC TÔN GIÁO
TU TÂM DƯỠNG TÁNH
NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 1)
THƯ NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 26