Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí
Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón
mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến
cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát
Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón
mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi
đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh
an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật
nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo
tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết
đang rơi lạnh buốt người.
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng
dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành
trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.
Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:
“Bồ
Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng
dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu
la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi
đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần
dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.
Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ
thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác
ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi
diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con
người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ
bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với
lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt
châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên
mãn.
*
Lục độ ba la mật gồm có:
-
Bố thí là dùng vật chất, chánh
pháp giúp đỡ và an ủi người.
-
Trì giới là giữ giới thanh tịnh
trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-
Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam
chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-
Tinh tấn là cố gắng vượt mọi
thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-
Thiền định là tâm an nhiên tự
tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-
Trí tuệ là nhận thức sáng suốt
đưa đến giác ngộ, không còn si mê.
*Bát
chánh đạo gồm có:
- Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu
rõ vô thường, nhân quả.
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không
trái với chân lý và lẽ phải.
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói
những lời thô ác, dối gạt.
- Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm
những việc ác nghiệp.
- Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm
những nghề bất thiện.
- Chánh
tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
- Chánh
niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
- Chánh
định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân
Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem
cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng;
và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng
suốt.
Cúng
dường Ðức Phật Thích
Ca:
Ðức Phật Thích Ca là
một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho
người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp
Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói
buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần
nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay
tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói,
sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ
càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm.
Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành
trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí
tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị
an lạc vô biên.
Tham ái sanh ưu tư
Tham ái sanh sợ hãi
Ai giải thoát tham ái
Không ưu, không sợ hãi.
(Kinh
Pháp Cú)
Tâm từ thắng nóng giận
Tâm thiện thắng ác hung
Tâm thí thắng tham lam
Tâm chơn thắng dối trá.
(Kinh
Pháp Cú)
Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành
trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể
xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm
hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo
Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.
Cúng dường
Đức Phật Ða Bảo:
Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra
trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm
hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi,
thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn
được giải thoát nên phát tâm tu hành
hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ
làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính
là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi
khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.
Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự
tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói
nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn
không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng
và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những
người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo
tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo
hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh
Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi
Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng
dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng.
Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự
cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát
hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền
linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và
lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh
Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người
đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai
mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ
Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.
Hiểu rõ chân lý nhân
quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và
hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ
đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự
chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an
lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng
tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến
đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như
không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít
mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an
ổn tự tại.
Ða dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
(Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho
con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh
dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình
thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh
Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả
không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh
dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ
nhận kết quả hạnh phúc cho mình.
Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế
Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật
tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con
người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước
lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu
diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.
. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để
bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán
Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm
để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích: Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích
không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán
Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.
Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:
Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường
tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông,
có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn
đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ
trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần
yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ
sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi
tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng:
“Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm
thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng
sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn
thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật,
với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay
tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành,
dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.
Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp
tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh
sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca
chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ
ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao
động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma,
binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ
là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành
đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó
chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng
dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng
nhất. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Chuyện Bà Lão Cúng
Đèn Thời Đức Phật
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên.
Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri.
Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện.
Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Suy Ngẫm:
Có hai loại ngọn đèn:
1. Ngọn đèn trí tuệ: tượng trưng "Phật tâm Phật
tánh" sáng suốt của mỗi con người ai cũng có sẵn, bình đẳng, không có
biệt trừ. Chỉ có phàm phu mới có tâm phân biệt giai cấp, sang hèn, hơn
thua, so đo, nên sanh phiền não. Ý nghĩa cúng đèn với bản tâm thanh tịnh, mồi
ánh sáng trí tuệ từ ngọn đuốc Phật Pháp. Ngoài ra, không cầu xin gì riêng cho
cái tôi (bản ngã), không đòi hỏi Chư Phật phải ban cho mình gì cả và cũng không
tính toán hơn thua danh lợi. Đó mới là tấm lòng cúng dường Phật Pháp trong sáng
thanh tịnh, vì người không vì riêng cá nhân mình, gia đình mình (gọi là cúng
dường ba la mật), cho nên tương ưng với tâm của Chư Phật và Chư Bồ tát. Ngọn
đèn công đức, đầy đủ từ bi trí tuệ đó cháy mãi với thời gian.
2. Ngọn đèn thế tục: tượng trưng sự giàu có phô trương, mặc
dù nhiều dầu, sang trọng, mắc tiền, nhưng có lúc cũng phải cạn và lịm tắt dần.
Ví như của cải sang giàu, phước báu, nhưng khi hưởng hết, hoặc cuối cuộc đời
rồi cũng phải buông xuôi, mất đi tất cả theo luật vô thường. Con người thế gian
khi cúng đèn với tâm cầu xin hưởng phước, đòi hỏi nhiều việc từ nơi Chư Phật,
Chư Bồ tát, cầu mong được giàu sang an nhàn (cúng dường cầu danh lợi) cho riêng
bản thân, thì chỉ được phước hữu lậu trong thời gian ngắn ngủi. Đèn thế tục còn
lắm phiền não, tham lam và ích kỷ thì không thể cháy sáng lâu dài được. Đó là
những phước báo rất ít ỏi khiến cho con người trôi lăn mãi trong luân hồi lục
đạo.
Người tu học đạo phải
trải lòng cao thượng rộng lớn, Từ Bi Hỷ Xả, trong khi cúng dường hoa, trái,
nhang, đèn, nên phát tâm cầu giác ngộ Chánh Pháp hiện đời cho mình và cho tất
cả chúng sanh, đều thành Phật đạo. Tu tâm sửa tánh, không khinh người, giúp đời
hành thiện, tha thứ bao dung. Đó là hạnh nguyện đúng chánh pháp của người phát
tâm tu theo Phật, hành Bồ Tát đạo.
ĐI
CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
PHẬT
GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG?
DÂNG
SỚ CẦU AN CÚNG SAO GIẢI HẠN
LÀM
SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?
TÁM
ĐIỀU NGƯỜI TRÍ CẦN BIẾT RÕ.(PHTQ 16)