TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Pháp vũ đồng lưu, lưu bất đoạn
Phật đăng phổ chiếu, chiếu vô cùng
*
Mưa pháp tràn lan, lan chẳng dứt
Ðèn từ rạng chiếu, chiếu không cùng.
(Tổ
Khánh Hòa)
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, Phật Giáo đồ khắp năm châu đã đón nhận ánh
sáng khai ngộ của Ðức Phật bằng sự chân thành cung kính và tri ơn vô cùng vô
tận. Khi còn là Thái tử Tất Ðạt Ða, nhận thấy cảnh sanh lão bịnh tử, đem đến sự
thống khổ cho nhân loại, Ngài quyết tâm ra đi tìm đạo giác ngộ giải thoát cho
chúng sinh. Trải qua nhiều chặng đường cầu đạo gian lao, với sáu năm kiên trì
khổ hạnh, Ðức Phật đoạn trừ được hết tham ái, lậu hoặc và vô minh, chứng đắc
quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, trở thành Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật. Sau khi đắc đạo, Ðức Thế Tôn nhắn gởi nhân loại thông điệp: “Tất cả chúng
sanh đều bình đẳng trong Phật tánh, không phân biệt giai cấp quí tộc hay hạ
tiện. Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật”. Nghĩa
là không có giai cấp phân biệt trong Phật tánh, khi mê lầm là chúng sanh, khi
giác ngộ sẽ thành Phật. Ai cũng có Phật tánh giống nhau và có thể tu hành để
thoát vòng luân hồi sanh tử. Ðó chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật
tuyệt đối.
Sự Bình Ðẳng Trong Nhân Gian:
Xưa kia, xã hội sống dưới sự thống trị của giai cấp giàu có và đầy quyền
lực. Do đó, tạo ra nhiều bất công và bất bình đẳng về vật chất, quyền lợi và
địa vị. Nhân gian thống khổ lầm than, đấu tranh, hận thù, chết chóc luôn xảy
ra. Vì phải chịu đựng sự áp bức bất công, đau khổ, nghèo đói, và ly tán, người
dân thường hay cầu khẩn, van xin, để được nhiều điều ước muốn bình an như ý. Họ
tìm tới những thuật sĩ và đạo sĩ, chuyên dụ dẫn mê hoặc tín đồ nhẹ dạ, nhắm mắt
tin tưởng những vị thần thánh huyền thoại tưởng tượng, đầy vạn năng, có thể ban
phước giáng họa theo lời cầu khẩn van xin. Dựa vào những ảo tưởng mơ hồ đó,
thường không được như ý, con người chìm đắm trong đau khổ và thù hận, chiến tranh
bùng nổ khắp nơi. Ngày nay, luật pháp do con người đặt ra, tôn trọng nhân quyền
trong xã hội tuy có tiến bộ, bình đẳng được cải thiện trong một số lãnh vực cần
thiết về đời sống, đạo đức được đánh giá cao, nhưng đó chỉ là bình đẳng tương
đối trong thế gian mà thôi.
Trong đời
sống gia đình, giữa vợ chồng, con cái, sự bình đẳng được đặt vào vị trí cho
từng thành viên. Ðạo đức giữa vợ chồng là phải có sự tôn trọng, thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau. Cha mẹ phải có trách nhiệm về sự trưởng thành của các con.
Phận làm con cũng phải vẹn tròn hiếu đạo đối với cha mẹ. Như vậy ngay trong gia
đình, sự bình đẳng tương đối đem lại an lành và hạnh phúc. Ðạo đức xã hội được
cải thiện, đời sống bớt đi tranh chấp, phân biệt đối xử, phải trái, hơn thua,
được mất, giấc ngủ mọi người tương đối được bình yên. Kinh Pháp Cú có dạy:
Người
hơn thì thêm oán
Kẻ
thua ngủ chẳng yên
Hơn
thua đều xả bỏ
Giấc
ngủ được bình yên.
Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh Trong Nhân Quả:
Chân lý nhân quả chi phối việc thiện ác từ quá khứ, hiện tại và vị lai,
trong nhiều đời nhiều kiếp. Những hành vi thiện ác đều bình đẳng trong nhân
quả, không có sự biệt trừ. Ai tạo nhân lành thì hưởng kết quả an vui, ai gieo
nhân ác thì lãnh hậu quả đau khổ. Con người nếu biết dừng các nghiệp nhân xấu
ác, bất thiện từ trước, ngày nay biết tạo nhiều nghiệp nhân thiện lành phước
báu; đến khi nghiệp quả, nghiệp báo xảy đến, còn gọi là quả báo, con người cũng phải đền trả, nhưng nhờ
có phước báo nên chỉ đền trả một
cách nhẹ nhàng hơn. Ðó chính là “Suối Nguồn Bình Ðẳng TánhTrong Nhân Quả”. Kinh
Pháp Cú có dạy:
Hận
thù diệt hận thù
Trên đời không thể có
Từ
bi chuyển hận thù
Hận
thù sẽ tự diệt.
Như muốn được an lạc hạnh phúc, con người phải biết xả bỏ oán kết với người,
lấy ân báo oán, oán nghiệp sẽ tự tiêu tan. Người muốn tạo phước đức, để không
phải đền trả quả báo một cách nặng nề do nghiệp nhân cũ, trước hết phải tự
thanh lọc thân khẩu ý cho toàn thiện, tự chế tham sân si của bản thân, tu nhân
tích đức, giúp đỡ người hoạn nạn. Ðó là phép tu chuyển nghiệp tốt nhất.
“Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh Trong Nhân Quả”, là tự thân mỗi người khi sanh
ra trong thế gian này đều khác nhau về hoàn cảnh, phước báo, khả năng, thể
chất, tri thức. Hiểu rõ được các sai khác này là sự suy nghĩ chân chánh, trong
bát chánh đạo gọi là chánh tư duy. Từ đó, chúng ta sẽ sống vì người, nghĩa là
không so đo, không hơn thua, không ganh ghét đố kỵ và không thù hằn vô cớ với
người.
Chúng ta cảm thấy vui với hạnh phúc của người, biết chia sẻ nỗi khổ của
người bất hạnh, biết cách đối xử với nhau bằng sự chân thật của lòng bình đẳng
vị tha. Nếu con người luôn sống đời phạm hạnh đạo đức, tâm tánh bình đẳng khiêm
cung, lòng bao dung và bình đẳng với người kém phước hơn mình, chính là nhân
lành đem về kết quả an vui. Sống trên đời không ai muốn bị sỉ nhục, tài sản bị
chiếm đoạt, hay bị mất thân mạng. Những hành động tốt giúp đỡ người cô thế, an
ủi người bị thất bại, lòng tôn trọng người sẽ được người tôn kính trở lại.
* Tôn trọng nhân phẩm
người như nhân phẩm của mình
* Tôn trọng tài sản
người như tài sản của mình.
* Tôn trọng sinh mạng
người như sinh mạng của mình.
Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh Trong Ðạo Phật:
Ðức Phật như một tấm gương sáng ngời, đạo hạnh của Ngài chuyển hóa được
xã hội đầy những chia rẽ, bất công, trở về đời sống đạo đức. Giáo lý của Đức
Phật là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” công bằng tuyệt đối, đã đem mọi người trong
xã hội ngồi gần lại với nhau. Đạo Phật dạy, giữa người với người một cái nhìn
khinh mạn, một cử chỉ chê cười cũng không nên có.
Ngày nay, mọi người gặp nhau trong chùa, thường chắp tay chào nhau một
cách cung kính, đó là thể hiện sự trân trọng Phật Tánh bình đẳng sẵn có của mỗi
người, không phân biệt tại gia hay xuất gia, hoặc tướng giàu, tướng nghèo, địa
vị cao hay thấp. Khi chào nhau như vậy, tâm con người trở nên khiêm hạ vô tư,
tinh thần bình đẳng tánh trong đạo Phật là không thấy mình lễ và không phân
biệt người nhận lễ. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Ðó là hình ảnh
thật đẹp và cao quí vô cùng của những người biết tôn trọng “Sự Bình Đẳng Tánh
Trong Đạo Phật”.
Căn bản của đạo Phật là sự sáng suốt ngay tự thân tâm thanh tịnh, rèn
luyện người tu đức tánh bình đẳng bằng Phật tâm, Phật tánh. Con người muốn tu
phải diệt lòng tham lam, sân hận, si mê và ích kỷ ngã mạn, trở về với “Suối
Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật cao thượng theo lời Phật dạy. Sự tôn trọng nhân
phẩm tất cả mọi người, từ hành động thân khẩu ý đều do tâm từ thanh tịnh mà ra.
Đạo Phật khuyến khích con người tu tâm dưỡng tánh, khai mở trí tuệ, tăng trưởng
thiện căn, tạo nhiều phước đức, an lạc và hạnh phúc khắp mọi nơi. Kinh Pháp cú,
Đức Phật dạy:
Tâm
dẫn đầu mọi pháp
Làm
chủ và tạo tác
Lời
nói hay hành động
Với
tâm từ thanh tịnh
Hạnh
phúc sẽ theo ta
Như
bóng không rời hình.
Diệu Dụng Của Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh:
Khi bản tánh cao thượng của con người không còn thấy ai hơn ai kém, không
còn tánh kiêu căng ngã mạn, con người sống trong Phật tánh sáng suốt của “Suối
Nguồn Bình Đẳng Tánh”, nghiã là luôn luôn sống với tâm giống như chư Phật. Sự
an lạc chân thật của người có tâm hạnh bình đẳng ảnh hưởng đến những người thân
sống chung quanh, cũng là gương giác ngộ sáng suốt lợi tha hiệu quả vô cùng.
Tuy con người mê ngộ không đồng, nhưng Phật tánh đều bình đẳng. Người biết cách
tu, không phân biệt tại gia hay xuất gia, có được tánh khiêm cung và bình đẳng,
sẽ gặt hái được rất nhiều điều lợi ích cho cuộc sống. Muốn có được công đức và
phước đức, dùng làm chiếc thuyền vượt qua biển khổ phiền não vô cùng vô tận từ
nhiều đời kiếp, chúng ta cố gắng làm được 10 điều sau:
Tâm cầu đạo, nhiệt
thành tinh tấn
Biết hổ thẹn, ghê sợ
tội lỗi
Không độc hiễm, thù oán
hại người
Không ganh tỵ, đức tánh
trong sạch
Không bỏn sẻn, tâm từ
quảng đại
Không khinh người, nếp
sống đạo đức
Tu đạo hạnh, trau giồi
Phật pháp,
Làm từ thiện, giúp đời
cứu người
Biết hy sinh, vì người
quên mình.
Hành việc đạo, sáng
suốt khôn ngoan.
Ðức Phật thành đạo ngay cõi ta bà và thuyết pháp độ sanh suốt 45 năm cho
đến lúc nhập diệt, để lại bao nhiêu lời dạy vàng ngọc quí báu hơn cả trân châu
trong cõi đời. Tâm đại từ đại bi như cha lành thương con, tất cả đệ tử đều phải
nương vào giáo lý của đức Thế Tôn trao truyền mà được giác ngộ sáng suốt theo
chánh đạo, không đi sai đường vào tà đạo. Ðức Phật dạy ba môn học “Giới
Ðịnh Tuệ” làm căn bản, nghĩa là hành giả tu theo Phật phải tự thắp đuốc lên mà đi,
để biết đường mà tu, biết đạo mà hành.
- Giới là những điều luật giữ cho con người
không tạo nghiệp ác.
- Ðịnh là sự hành trì tu tập
đoan chánh đi đến nhất tâm không còn
loạn động.
- Tuệ là sự giác ngộ sáng suốt đưa đến giải
thoát sanh tử,
đoạn tận vô minh.
Tóm lại, đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát, đức Phật là bậc từ
bi và trí tuệ cao tột. Trí tuệ giác ngộ là biết đời sống vô
thường, sanh diệt không ngừng, con người chuyển biến từ sanh, lão, đến bịnh,
tử; và hiểu được sự bình đẳng vô phân biệt của Phật tánh.
Tâm từ bi đưa con người đến sự giải thoát phiền não của nghiệp chướng
nhiều đời kiếp. Người tu biết trưởng dưỡng tâm từ bi, biết giữ giới, tu thiền
định, được trí tuệ, tự tu tự độ sẽ được giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân
hồi. Ðó là con đường thành đạo quả chánh đẳng chánh giác mà Ðức Thế Tôn đã đi
và chỉ dạy với tâm đại từ đại bi cao thượng.
Trong Kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát đã giác ngộ được Phật tánh
bình đẳng cao thượng, gặp ai Ngài cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì
các ngài đều sẽ thành Phật”. Suối nguồn bình đẳng tánh là sự giác ngộ và giải
thoát của Phật tâm, Phật tánh nơi tự thân mỗi con người. Tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa. Chánh pháp của đức Phật mãi
mãi là con đường tiến đến tâm hạnh thiện lành trọn vẹn cho người tu, và đem lại
đời sống đạo đức cao thượng, để không còn cái ta khổ đau và phiền não nữa. Chân
lý tối thượng vượt trên tất cả chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” vô ngã
tuyệt đối. []
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN.
Thích Nữ Chân Liễu (Canada)
XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU (Giọng đọc SƯƠNG ANH)
Sen Hồng Một Đóa
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Lò lửa sen hồng mấy kẻ hay
Mây che nguyệt rạng chẳng phô bày
Ngọc lành ẩn đá không phai sắc
Bể thánh nguồn chơn mặc tỉnh say.
Bốn câu thơ trên là của Ni trưởng Như Thanh, một bậc tài
năng xuất chúng được sự ngưỡng mộ và khâm phục trong ni giới Phật giáo Việt
Nam. Như ngọn đuốc sáng bừng trong đêm tối, Ni trưởng là một bậc chân tu vì đạo
quên mình, sanh năm Tân Hợi 1911, tại huyện Thủ đức, Gia định. Thiện duyên đưa
đến, Ni trưởng xuất gia năm 22 tuổi, đệ tử của Tổ Pháp Ấn, chùa Phước Tường,
Thủ đức. Với trí thông minh và lòng hiếu học, cộng thêm nhẫn lực vô biên, Ni
trưởng đã đạt được nhiều thành quả trên đường tham học Phật pháp từ Nam ra đến
Huế và Hà nội. Năm 1972, Ni trưởng được Giáo hội giao trọng trách Vụ trưởng Ni
bộ Bắc tông, và giữ vai trò Cố vấn tối cao trong các nhiệm kỳ kế tiếp. Ni
trưởng viên tịch năm 1999, để lại bao thương tiếc cho hàng đệ tử xuất gia và
tại gia.
Vài
trang giấy không đủ nói lên hết được đạo hạnh và gương sáng của người, nhưng để
chia sẻ với những người đang học Phật và tu Phật, những lời dạy quí báu của
người ghi lại trong quyển sách “Cuộc đời và sự nghiệp của Sư trưởng Như Thanh” xem như một nhân duyên thiện
lành đặc biệt. Thành kính đảnh lễ giác linh Ni trưởng với tấm lòng tri ân và
niềm cảm phục của hàng hậu học.
N ếu như xưa kia, khi đồng ý cho bà di mẫu Maha
baxà bađề (Kiều Đàm) cùng 500 người nữ xuất gia trong giáo pháp, đức Thế tôn
tuyên báo rằng chánh pháp vì vậy sẽ diệt vong sớm 500 năm. Không ai có thể đoán
rằng chánh pháp tồn tại bao lâu để làm bài toán trừ 500 năm đó. Khi đề cập đến
quá trình lịch sử đức Phật không cho phép người nữ xuất gia một cách dễ dàng,
Ni trưởng đã có một cái nhìn tuệ giác như sau:
“Vì
trách nhiệm của người xuất gia rất nặng nề, khó nhọc, mà phạm hạnh cũng khó
thực hành, bởi thế đức Phật không hứa cho người nữ xuất gia một cách dễ dàng. Đây
là bổn ý của đức Phật muốn mở rộng con đường hóa đạo cho tất cả người nữ sau
này. Bởi sự giáo dục của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên họ ở trong
thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc ràng, làm cho tâm tính không được sáng
tỏ, ý chí không được sâu rộng. Đức Phật vì muốn cho hàng Tỳ kheo ni chứng đến
các pháp thiệt tánh mà Ngài đem tâm bình đẳng phương tiện dẫn dắt, khiến cho
mọi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa
ở thế gian trở nên tốt đẹp. Hàng Tỳ kheo ni ở trong chánh pháp của đức Phật gặp
được cơ hội mở mang, truyền bá, làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo
công đức vô lượng”.
Đạo
Phật đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo Phật không phải là lý thuyết suông để bàn
luận. Đạo là sống và hành. Đạo là sự chân thật, sáng suốt, đậm đà và thanh
thoát. Để dẫn dắt người nữ tu vượt qua được bản tánh nhi nữ thường tình, nhờ
khép mình trong giới pháp, vượt qua mọi trở ngại thuận nghịch bằng khả năng tu
chứng, thì người nữ tu vẫn có thể phụng sự và xiển dương Chánh pháp. Ni trưởng
chủ trương một căn bản đào tạo ni tài, lập nguyện kiên cường cho ni chúng, trao
truyền tam học: Giới, Định, Tuệ.
Ni
trưởng dạy rằng:
- Giới học là
giềng mối của người tu Phật.
- Định học là
phép tắc điều phục tâm trí.
- Tuệ học là
năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái.
Ni
trưởng Như Thanh đã trải thân phục vụ đạo pháp, khiến cho pháp âm truyền bá
khắp nơi. Người là một bậc Ni trưởng đạo cao, đức trọng, làu thông kinh luật,
trước tác, dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị. Ni trưởng đã dẫn dắt hàng ni
chúng hậu học thoát khỏi những mặc cảm tự ti, sợ hãi, nhút nhát và khai sáng
trí tuệ cho hàng đệ tử. Công đức của người thực vô lượng, vô biên.
Ni
trưởng luôn luôn quan niệm, để chia sẻ gánh nặng hoằng pháp, người xuất gia,
không phân biệt tăng hay ni, đều có trách nhiệm góp phần công đức để đền đáp
công ơn sâu dầy của đức Thế tôn.
Khi
nói lên phạm hạnh cao quí của hàng xuất gia, trong tác phẩm “Giới đức khiêm
ưu”, Ni trưởng đã viết như sau:
“Phẩm
hạnh cao quí của tăng già là do công phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả
chúng sanh, tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích cho mọi người, như khát
thì cho uống, đói cho cơm ăn, bịnh cho thuốc uống, lạnh cho áo ấm, gặp sợ sệt
giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng
suốt, cho đến bỏ mình cho cọp đói ăn cũng gọi là đức hỷ xả bố thí. Trong hoàn
cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm phen bẻ gảy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc là
cố gắng học tập, việc khó làm cố gắng siêng làm. Dẫu có người khuấy rối, dằn ép
cũng chẳng căm tức, giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên, chẳng tác sắc nóng nảy
bứt rứt”.
Với khả năng, đức độ, tâm từ bi của người đã tạo cho hàng
ni chúng xuất gia tiến trên con đường giác ngộ và giải thoát. Sự tương kính
nhau như tỷ muội, dùng tâm niệm bình đẳng đối xử, phẩm hạnh của người tu trong
chúng nên tự xét lại mình để chừa bỏ lỗi lầm, thay vì phóng tâm nghĩ đến
hơn thua, phải quấy, đúng sai, được mất, biểu lộ đức tính hiền từ, lễ độ, khiêm
cung, khoan dung, hòa lạc, khiến người xung quanh sanh lòng quí mến như hoa sen
nở hương thơm ngát.
Huynh đệ cùng nhau gắng
học hành
Lời qua tiếng lại nhớ
đừng tranh
Quyết lòng sửa tánh cho
thanh tịnh
Xuân đến đời ta đặng
tiếng thanh.
(Hoa Đạo)
Trải qua trong cõi phù
sinh
Học rành chữ nhẫn hữu
hình ngại chi
Nhẫn là phước quả từ bi
Giúp ta thâm ngộ vô vi
đạo mầu.
(Hoa Đạo)
Lời
thơ của người là khuôn vàng thước ngọc. Thơ văn của một bậc chân tu đầy đạo
tình đạo vị, người đọc cần lắng lòng tỉnh ngộ. Ni trưởng còn khuyên nhắc về trách
nhiệm của Tỳ kheo ni về sự nghiệp hoằng pháp như sau:
1) Xuất gia vì mục tiêu giải thoát tự thân và tha nhân.
2) Thiết tha cầu học chánh pháp giữa biển sống vô
thường.
3) Thể hiện nghiêm túc nếp sống phạm hạnh
Giới-Định-Tuệ,
4) Phát triển văn huệ, tư huệ và tu huệ.
5) Tích cực tiếp dẫn hàng hậu học.
6) Thao thức vì sự nghiệp độ sanh, hưng khởi chánh
pháp.
Ni trưởng là một vị Bồ tát dấn thân từ ni giới, mang tâm
niệm cứu khổ chúng sanh, thức tỉnh mọi người quay về với tình thương vô hạn
trong giới pháp của đức Thích ca mâu ni. Dòng pháp nhủ của Ni trưởng Như Thanh
là dòng nước cam lộ của đức Quán thế âm, làm dịu mát những nhiệt não của thế
gian, khơi dậy ngọn đèn trí tuệ, không bị tham sân si trói buộc, sai khiến,
hành xử lợi mình lợi người, sống với tâm Phật không còn bị vô minh che lấp.
Trong
tác phẩm “Hành Bồ Tát Đạo”, Ni trưởng đã đem tâm huyết
của mình để truyền trao lại cho người xuất gia cũng như tại gia. Ni trưởng
viết:
“Nếu
trong một lúc nào đó, chúng ta lắng yên được tâm thức, để cho nó vắng lặng rỗng
rang, chẳng khởi lên một niệm suy tính so lường, thì tất nhiên trong sát na ấy,
chúng ta nhìn rõ được bản lai diện mục của mình, thấy rõ chân tâm thể tánh của
mình vốn bất sanh bất diệt, nó xóa bỏ mọi ranh giới ngã và nhơn, thiện và ác.
Trong giây phút linh diệu ấy, tâm thức chúng ta bổng nhẹ nhàng, cõi lòng mở
rộng với muôn ngàn thương yêu, tình cảm trong sáng dịu dàng, nó chẳng phải là
thứ tình cảm hạn hẹp, phát sinh từ lòng ái dục, mà phát xuất từ tâm bi, nên nó
bao la, tươi nhuần và bình đẳng, vô phân biệt. Bấy giờ cái nhìn của chúng ta
đối với vạn vật cũng trong suốt và bình đẳng như thế. Đây là giây phút mà tâm
ta vô trụ, không vướng mắc, hoàn toàn tự do. Nếu sống mãi với tâm vô trụ như
thế, chúng ta đã được giải thoát, được an nhiên tự tại”.
Chư
Phật không có tâm phân biệt đây là tăng, đây là ni, đây là tướng nam, đây là
tướng nữ, tướng đẹp tướng xấu, tướng giàu tướng nghèo. Chư Phật bình đẳng tuyệt
đối trong phong cách hóa độ chúng sanh. Bổn phận người tu phải nhận ra con
đường chư Phật đã đi và đã đến.
Đức
Phật đã dạy chúng ta hãy mồi ngọn đuốc chánh pháp của Ngài để tự thắp sáng trí
tuệ, thấy đường mà tu, thấy đạo mà hành. Các đấng Tôn sư đã tha thiết giảng
dạy, khuyến tu, chớ nên đợi khi vô thường đến, không phân biệt già trẻ, sang
hèn, tuổi đời càng chồng chất, đau yếu bệnh tật sanh ra, làm cho con đường đi
đến giác ngộ ngày càng thêm khó khăn, trắc trở. Bao nhiêu đời kiếp đã qua, con
người mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, không biết đến kiếp nào mới vượt
thoát được.
T óm lại, Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng
vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập
thế cứu khổ của người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni trưởng đã vân du
khắp mọi miền đất nước, để thuyết giảng không hề mệt mỏi. Cho đến ngày thanh
thản ra đi, để lại cho đời và cho đạo nhiều tác phẩm có giá trị
tu học, Ni trưởng vẫn còn mong các đệ tử Phật gia phải giống như hoa sen rạng
ngời ánh sáng trí tuệ, đem ngọn đuốc chánh pháp soi rọi khắp thế gian u tối,
giúp mọi người thoát khỏi bùn nhơ khổ đau phiền não, vượt lên trên mặt nước như
những đóa sen hồng tỏa hương thơm tinh khiết của sự giác ngộ và giải thoát. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Thích Nữ Chân Liễu
SỐNG ẨN DẬT
Sống ẩn dật cuộc đời thong dong quá
Không thị phi, danh lợi cũng rời xa
Tránh lo toan tính toán khỏi phiền hà
Chuyện thế sự để ngoài tai không động
Tịnh tâm ý một đêm dài không
mộng
Ngày yên lành với kinh kệ thảnh thơi
Nhìn trời mây hoa lá đẹp muôn nơi
Cảnh điền viên chăm nom ta vui thú
Không ham muốn dù chung quanh đầy
đủ
Những tiện nghi vật chất với kim
tiền
Vì lợi danh khiến bao kẻ đảo
điên
Bán nhân phẩm tình đồng môn cũng
mất
Ta vẫn sống an nhàn dầu chật
vật
Lòng thanh cao giải thoát thật nhẹ
nhàng
Khi biết buông những thứ đã cưu mang
Việc cần đến sẵn sàng ta cứ đến
Tâm giác ngộ quay đầu là đến
bến
Cõi vô thường đời vô ngã liễu
tri
Mãi bon chen thành đạt có ích gì
?
Đem đánh đổi tâm Bồ Đề biến mất !
Hành ma sự đấy là điều sự thật
Dắt bao người phải theo xuống vực
sâu
Hoảng sợ ngày đêm lắm chuyện lo
âu
Khi tỉnh lại đã thấy mình cô độc
Tưởng mình tài ai dè là người
ngốc
Dành công lao vào những chuyện huyễn
vông
Cõi vô thường giữ mãi được hay không
?
Để đánh mất nhiều thời gian tu tĩnh
Tâm an tịnh là cuộc đời an
tịnh
Lo làm chi phiền não sẽ bao
quanh
Cái nầy sanh cái khác cũng lại
sanh
Vòng sanh diệt cứ quay cuồng mãi mãi
Đánh mất mình chạy theo vòng đối
đãi
Hại bao người phải vướng chuyện thị
phi
Ham lợi danh thành đạt có ích gì
?
Sống ẩn dật cuộc đời thong dong quá !
Viên Thành
CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ ĐẠO PHẬT
Những ngày lễ - Tết, trong tấp nập người
đi lễ chùa thì phổ biến nhất vẫn là khấn nguyện, cầu xin chư Phật ban ơn, tăng
phúc, bớt họa v.v... Sở dĩ có hiện tượng đó là do không ít người có nhận thức
lệch lạc về Đức Phật, về chức năng, nhiệm vụ của chùa chiền.
Hằn sâu trong tâm thức người Việt, Đức
Phật hiện lên như một vị thần có nhiều quyền năng, thần thông quảng đại, có thể
ban phúc, trừ họa cho bất kỳ người nào. Hình ảnh đó được cụ thể hóa bằng hình
tượng ông Bụt trong các câu chuyện cổ tích; là hình ảnh Phật Tổ Như Lai toàn
năng, tài giỏi hơn cả Ngọc hoàng trong tác phẩm văn học được rất nhiều thế hệ người
Việt Nam yêu thích là Tây du ký. Sự hình tượng hóa Đức Phật một cách sai
lệch như vậy mà
không hiểu ý nghiã thâm sâu, các chùa chiền cũng
không giải thích nổi cho Phật tử, vô hình trở thành động lực khuyến khích, thôi thúc người ta đến
chùa với tâm cầu khẩn van xin phép lạ của đấng tiêng liêng không có thật.
Trước Tam bảo, người
ta lạy lục cầu xin: xin cho tai qua nạn khỏi; xin cho giàu sang phú quý; xin
tiền tài, xin địa vị… Họ mang theo rất nhiều lễ vật, sì sụp khấn vái, cầu xin.
Khắp nơi trong khuôn viên chùa chỗ nào cũng thấy cắm nhang đèn, tiền rải khắp
nơi; lò hóa vàng rừng rực cháy mang theo muôn vàn lãng phí. Cảnh chen chúc,
giẫm đạp nhau ở cửa thiền để được làm lễ cầu an, giải hạn trong dịp đầu năm
không còn là chuyện lạ.
Trong tình hình đó, đáng lẽ đội ngũ Tăng
Ni ở các ngôi chùa cần phải hướng dẫn, chấn chỉnh lại nhận thức sai lệch của
người dân, của Phật tử. Tuy nhiên, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng,
mà nhiều ngôi chùa, nhiều nhà sư lại dễ dãi chấp nhận việc người dân, Phật tử
đến chùa chỉ để cầu xin. Hình ảnh một số nhà sư cúng sao giải hạn, gieo quẻ âm
dương, chọn ngày lành tháng tốt đã và đang làm cho đạo Phật dần dần đậm màu sắc
mê tín,
đạo Phật trở thành thần quyền ban phước giáng hoạ theo lời cầu xin của nhân
gian. Lòng tham con người càng lúc càng tăng, còn đạo tý thì không học cũng
chẳng cần hiểu.
Để trả lại thanh tịnh cho chùa chiền, giúp
chúng sinh nhận thức rõ về giáo lý, khuyến tu về nội tâm là
trách nhiệm của hàng xuất gia và phương pháp tìm an lạc ngay trong cuộc
sống, cần có một sự đổi thay căn bản sinh hoạt học tập giáo lý của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi xã hội nhận biết đạo Phật
thông qua hoạt động của đội ngũ Tăng Ni và Phật tử; cuộc sống
thường ngày của Phật tử là tấm gương phản chiếu tư tưởng Phật giáo đến cộng
đồng.
Chùa là nơi hoằng pháp. Vậy sư trụ trì và
đội ngũ Tăng Ni phải là những người thầy trong lĩnh vực truyền bá giáo lý của
Phật. Những tủ kinh sách Phật giáo phải được trưng bày ở nơi dễ thấy, dễ lấy.
Sách về đạo Phật cần được đổi mới, được dịch và viết ra theo ngôn ngữ đương
đại, dễ hiểu, dễ thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. Vào những ngày lễ - Tết,
các Tăng Ni phải thuyết giảng giáo pháp hướng dẫn tu học cho những người muốn
đến chùa học hỏi Chánh pháp. Chứ đừng quá chú tâm vào những hình thức
lễ lộc của nhân gian, ăn uống hao phí, lân trống văn nghệ vui chơi ồn ào náo
nhiệt và quá nặng nề về những hình thức mê tín dị đoan.
Đức Phật nói: “Tin Ta mà không hiểu Ta
là phỉ báng Ta”. Việc xem Đức Phật như một vị thần chuyên ban ơn,
giáng họa; coi chùa chiền như một địa điểm cầu xin phước lộc vui chơi, đang làm cho đạo Phật
trở nên xa lạ với tinh thần thanh tịnh, tu tâm dưỡng tánh do chính Đức Phật đã chứng ngộ chỉ dạy để thoát ra khỏi lục
đạo luân hồi .
Thiết nghĩ, chư vị Tăng Ni, Phật tử hãy cùng chung tay, góp sức trả lại giá trị
đích thực cho ngôi chùa, trả lại sự tôn kính cho Đức Phật mà bao đời nay người con Phật ta hằng kính ngưỡng, vâng làm .
Chúng sanh lăn lộn đầu
thai trong lục đạo sanh tử luân hồi do nhiều căn bịnh từ vô minh ngàn kiếp,
gồm: tham ái, dục vọng, chấp thủ, đoạn kiến, thường kiến, ngã mạn. Sự chân thật
của Thật Tánh là người tu theo con đường Đức Phật dạy, đạt được tâm thanh tịnh,
đầy đủ trí tuệ, có thể chuyển phàm phu trở thành thánh nhân hay bồ tát.
Đức Phật Thích Ca
chứng đắc tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh. Mắt trí tuệ
của Ngài thấy được tam thiên đại thiên thế giới, thấy nhân quả trong nhiều đời
nhiều kiếp, phá vô minh phiền não chấp ngã chấp pháp không còn sanh tử, ra khỏi
lục đạo luân hồi. Lục đạo là sáu cảnh giới luân hồi mà con người phải đầu thai
chuyển kiếp, nếu chưa sạch hết nghiệp chướng, gồm: Thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
Cõi Thiên:
Sanh về cõi thiên, nơi cực lạc thế gian, hưởng phước báo thiện căn nhiều đời,
được giàu sang, đủ ăn đủ mặc, có người hầu hạ, nhà cao cửa rộng, an lạc hạnh
phúc.
Cõi Nhơn:
Sanh vào cõi người, giàu có nghèo có, ưa thích làm việc phước thiện, cũng có
khi tạo nghiệp bất thiện, hưởng phước báo và cũng chịu quả báo đau khổ, sanh,
lão, bịnh tử.
Cõi A Tu La:
Sanh vào nhà quyền quí, hưởng phước tốt của gia đình, có danh tiếng, có tiền
của, tánh tình nóng nảy và kiêu mạn, thích bạo động, có trí thức đời và thông
minh, không khéo dễ tạo nghiệp ác.
Cõi Địa Ngục: Sanh vào cõi đau khổ, vì nghiệp ác hại người sâu nặng, bị hành
hạ tra tấn ngày đêm, sống không được chết không xong, đau khổ vô cùng.
Cõi Ngạ Quỉ:
Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, thường bị hãm hại, không chỗ dung
thân, luôn đói khát, không có sức tự kiếm ăn, sống nhờ vào lòng tốt của mọi
người.
Cõi Súc Sanh: Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát quá nặng mà đọa vào cõi
nầy, lúc nào cũng sợ bị giết, sống nơi ẩm thấp rừng sâu nước độc, mang lông đội
sừng suốt kiếp.
Phật dạy: Rời xa kiến chấp, an lạc niết bàn, hàng phục
ma chướng, chứng đắc trí tuệ sáng suốt, thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt
khỏi giả danh, không còn chỗ thọ của bản ngã, không bị ràng buộc các pháp ác
của tà ma ngoại đạo. Đó là chỗ nhận biết của người trí tuệ và là chỗ cư trú các
bậc thánh, các bồ tát, các bậc giác ngộ.
(Kinh Duy Ma Cật)
KHÓ THAY ĐƯỢC LÀM NGƯỜI
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
ĐI CHÙA BƯỚC ĐẦU HÀNH TRÌNH TÂM LINH
ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
MƯỜI NGHIỆP LÀNH