Tác giả: THÀNH VĂN
Theo
triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo),
trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả. Quả có quả lành, quả ác do bởi
tâm lành ác sinh ra. Tu là sửa cái tâm; tức cái nhân để có thể nhận được quả theo
ý muốn.
Để cái tâm chạy theo trần cấu nhiều đời nhiều kiếp
thành thói quen, thành nghiệp. Nghiệp sẽ lôi kéo chúng sanh đi theo con đường
mòn nó đã vạch ra, không có gì cưỡng lại được.
Vấn đề rất sâu rộng. Ở đây người viết chỉ dám bàn
lướt qua mối tương quan nhân/ quả giữa tâm và tướng.
Trong dân gian quần chúng sáng tác ra rất nhiều
truyện ảnh hưởng đậm nét của tinh thần Phật giáo. Một trong những câu chuyện đó
người viết được nghe kể như sau:
Xưa, có một chàng nho sinh nhà nghèo lắm, không
có tiền mua dầu thắp để học đêm. Mỗi tối chàng đều phải đến ngôi chùa gần nhà
để xin sư cụ cho học nhờ dưới ánh sáng của những ngọn đền dầu trong chùa. Nhà
nghèo, biết thân phận nên anh học trò sống rất khiêm cung, lễ phép với mọi
người. Chàng cố công dùi mài kinh sử mong đến ngày lai kinh ứng thí, đỗ đạt ra
làm quan để trước ấm cái thân, sau là mở mày mở mặt với họ hàng làng
nước
Trên con đường lên chùa, hàng ngày nho sinh phải đi
ngang qua một cái miễu thổ thần, trước miễu có pho tượng nhỏ bằng đất nung. Pho
tượng cũng mũ mãng cân đai, được đặt ngồi trên một bệ đá.
Nhiều năm trời như vậy, anh chàng chăm chỉ học
hành. Một hôm khi vừa đi ngang qua miễu chàng ngạc nhiên thấy pho tượng bỗng
nhiên đứng dậy, nghiêng người chào mình. Chàng ngạc nhiên lắm, bèn dừng chân
lên tiếng lễ phép hỏi tượng:
- Tôi là gã nho
sinh nhà nghèo, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ lành. Hàng ngày phải lên
chùa nhờ ánh đèn dầu nơi cửa Phật để dùi mài kinh sử. Bấy lâu nay đi ngang đây
đều có nghiêng mình chào thần. Nay sao bỗng nhiên thần đứng dậy như chiều thi
lễ là tại lý do làm sao?
Tượng đất vẫn đứng vừa lên tiếng:
- Tôi vốn là thổ
địa ở đây, hàng ngày chứng kiến ông qua lại. Trước đây thấy ông là nho
sinh, tướng nghèo hèn, bần bạc. Lúc sau này bỗng tướng đổi khác. Tuy vẫn quần
manh, áo vá, ốm yếu xanh xao, nhưng vẻ mặt và dáng đi đã lộ ra cách quyền quý
giàu có. Tôi tra sổ thiên đình, thấy ông được thượng đế cho đỗ trạng nguyên kỳ
này. Ông sẽ xuất chính làm quan to, cai quản cả vùng này. Tôi là thổ địa ở đây
tất dưới quyền cai quản của ông, nên đứng dậy chào ông là vì thế.
Sinh nghe thổ địa nói thế lòng mừng khấp khởi.
Ít lâu sau chàng đâm chểnh mảng chuyện học hành. Hàng ngày vẫn đến chùa xin học
nhờ, nhưng đi trễ về sớm, không chuyên cần như xưa. Trước đây tính tình khiêm
cung. Ai nói phải quấy gì cũng vâng dạ, kính già yêu trẻ. Nay, nghĩ mình sắp
trở thành giai cấp cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nên cử chỉ thái độ thường tỏ
ra khinh bạc. Không vừa lòng ai điều gì thường buông ra lời đe dọa.
Thời gian cứ thế trôi. Gần đến ngày triều đình
mở khoa thi, nho sinh mừng thầm trong bụng ngày vinh hiển sắp đến. Thi đỗ ra
làm quan, tha hồ võng lọng, vợ đẹp con xinh, của cải do dân đút lót chất đầy
kho tha hồ ăn xài.
Lòng nghĩ thế, nên tuy vẫn hàng ngày ôm sách
lên chùa học nhờ, nhưng mặt mày trở nên vênh váo, mắt chỉ nhìn lên, nên không
để ý thấy tượng thổ địa vẫn chỉ ngồi im, không còn đứng dây chào khi thấy sinh
đi ngang qua nữa.
Kịp gần đến ngày lên đường lai kinh ứng thí,
một bữa đi ngang qua miễu sinh chợt để ý thấy chuyện thay đổi ấy nơi thổ
địa, bèn lên tiếng hỏi:
- Trước ta đi
ngang qua tượng vẫn đứng dậy chào. Nay sao lơ là, không chào nữa, là cớ làm
sao?
Tượng vẫn ngồi, từ tốn trả lời:
- Trước
đây ông chăm chỉ học hành, lòng dạ khiêm cung, biết kính trên nhường dưới, nên
cảm động đến trời. Thượng đế cho ghi tên ông vào bảng vàng, thi đỗ làm quan.
Nay ông đổi tính, tâm địa ngạo mạn, bỏ bê học hành, thượng đế giận, ngài đã cho
xóa tên ông trong bảng vàng rồi. Ông vẫn là bần sĩ, sao tôi lại phải chào ông?
Nho sinh nghe xong, mặt mày biến sắc, nhưng
biết đã quá trễ. Kỳ thi ấy sinh cũng lều chõng đi thi, nhưng chẳng đỗ đạt gì.
Trong dân gian từ đó mới có câu “Chưa đỗ ông
nghè đã đe hàng tổng”. Vẫn chàng nho sinh ấy, nhưng tướng thay đổi theo tâm.
Tâm lành sanh tướng tốt. Tâm ác hiện tướng xấu là thế.
Sách cũng có câu: “Hữu
tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt” (Có tâm
không tướng, tướng tự tâm mà sinh. Có tướng, nhưng không có tâm, tướng sẽ theo
tâm mà diệt đi).
Trên đất Mỹ, ở một số nơi như thư viện, trường
học, hội quán… người ta thấy có trưng bày những câu châm ngôn thế này:
Watch your thoughts, they become words.
Watch your words, they become actions.
Watch your actions, they become habits.
Watch your habits, they become character,
Watch your character, it becomes your destiny.
(Tạm dịch: Hãy
canh chừng những tư tưởng của bạn/ Nó sẽ trở thành lời nói. Hãy canh chừng lời
nói/ Chúng sẽ phát ra thành hành động. Hãy canh chừng hành động/ Chúng sẽ thành
thói quen. Hãy canh chừng thói quen của bạn/ Chúng sẽ tạo nên nhân cách. Hãy
coi chừng nhân cách bạn/ Nó sẽ trở thành số mệnh của bạn đấy.)
Bên dưới ghi tên tác giả là Frank Outlaw. Tuy nhiên nhiều
người cho rằng nguồn gốc câu ấy không rõ ràng. Có người bảo câu ấy là của Thánh
Gandhi.
Cho dù ai nói thì những phát biểu trên cũng phù hợp với quan niệm “Vạn pháp do tâm” của Phật giáo. Cái người ta gọi là số mệnh chẳng phải do một Thượng đế hay ông trời nào áp đặt, nó hình thành từ chính tư tưởng chúng ta.
Ở đây sẽ bàn về hai phương diện: tâm linh và khoa tâm lý
học.
Người học Phật, không ai là không biết, một trong những
luận đề cơ bản vị bổn sư là đức Phật cho đến các tổ sau này đều dạy tín đồ rằng
“tâm là gốc của vạn pháp” (vạn pháp do tâm tạo). Các pháp khởi sinh, biến hóa,
lành dữ đều do tâm. Người tu hành, trước hết là tu tâm. Sửa chữa, uốn nắn ngay
từ cái tâm. Khi cái tâm đã ngay chính, mọi pháp theo sau sẽ trở nên ngay chính,
trong đó có hình tướng.
Đức Phật, bậc đại giác đã hoàn toàn làm chủ
tâm. Ngài đã tu tập trong nhiều kiếp, gột rửa tâm trở nên hoàn toàn trong sạch,
nên trong kinh sách mô tả Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Những tướng tốt, vẻ
đẹp của Phật là gì người theo Phật đã biết. Tựu trung đó là những nét thánh
thiện, tốt lành gây nên lòng kính ngưỡng, mến mộ nơi kẻ nhìn. Đấy là một sắc
tướng hoàn hảo theo một quan niệm nào đó của thế gian tương đối. Thực tế, khi đạt
quả vị Phật, Đức Thế tôn đã vượt thoát ra khỏi mọi pháp thế gian. Ta thường nói
“không thể nghĩ bàn”.
Cho nên nói “Phật có đầy đủ 32 tướng tốt và 80
vẻ đẹp” cũng chỉ là cách nói ước lệ nhằm thỏa mãn sự ngưỡng vọng của người phàm
phu chúng ta đối với bậc giác ngộ mà thôi. Chứ Phật đã nhập Niết bàn, tức chân
lý tuyệt đối, vượt khỏi sự phân biệt, đối đãi nhị nguyên. Nên làm gì còn có đến
32 tướng, 80 vẻ dáng khác nhau?
Đến chùa chiền của những quốc gia khác nhau
chúng ta thấy hình dáng vẻ mặt các pho tượng Phật cũng khác nhau. Người nước
nào thì tạc tượng mang vẻ mặt người nước đó. Tượng Phật ở Thái Lan có khuôn mặt
của người Thái. Tượng Phật ở Trung Hoa có vẻ mặt người Trung hoa. Phật ở Nhật
Bản, ở Đại Hàn, ở Việt Nam đều có vẻ mặt khác nhau, mang đường nét của người
nam nước ấy.
Từ đức Phật đầu tiên là người Ấn Độ, khi Phật
giáo truyền qua các nước khác, nhân dạng ngài cũng đổi theo, trở thành người
của nước khác. Sau này giả sử đạo Phật trở nên thịnh hành ở Âu Mỹ, các
tượng Phật sẽ có nét mặt của người Âu Mỹ.
Tướng Phật theo tâm chúng sanh mà thành hình. Chùa chiền cũng vậy. Trang phục người tu sĩ và hàng phật tử cũng thế, đều theo tâm mà biến hiện.
Tướng Phật theo tâm chúng sanh mà thành hình. Chùa chiền cũng vậy. Trang phục người tu sĩ và hàng phật tử cũng thế, đều theo tâm mà biến hiện.
Nói theo khoa tâm lý học, tư tưởng mỗi con người dự
phần rất lớn tạo ra hình tướng của chính cá nhân con người ấy. Có những đứa bé
khi còn nhỏ rất xinh đẹp, khi lớn lên mặt mũi, hình dáng thay đổi, không còn
đẹp nữa, do bởi hoàn cảnh sống thay đổi. Những va chạm trong đời sống tạo nên
trạng thái tâm lý thích ứng với hoàn cảnh. Do tâm địa, do nghề nghiệp mà những
đường nét trên khuôn mặt, trong phong thái cử chỉ mà tạo thành tướng trạng.
Khoa bói toán, xem tướng chẳng qua cũng dựa
trên những kinh nghiệm nhiều đời đúc kết lại để diễn giải dựa trên các quy luật
về tâm lý.
Trong các truyện cổ tích và sau này truyện đem vào
phim ảnh, các mụ phù thủy đều mang một nhân dáng và khuôn mặt xấu xí đanh ác:
thân thể gầy gò, lưng còng, mặt mũi xương xẩu, má hóp, mũi như sống dao, khoằm
xuống như mỏ diều hâu, đôi mắt lộ, tóc tai bơ phờ…Dĩ nhiên hình ảnh bà phù thủy
được mô tả trong phim, truyện đều đã được người nghệ sĩ sáng tạo ra cố tình làm
nổi bật cái tâm độc ác của mụ.
Trong thực tế, những kẻ mang tâm địa độc ác dù
không đến nỗi luôn luôn phải mang bộ mặt xấu xí, nhưng trên nét mặt những hạng
người ấy vẫn để lộ những nét hung dữ. Kẻ ác trong đầu họ thường suy nghĩ căng
thẳng những mưu kế hại người. Tâm lý thù hằn ảnh hưởng trên các tuyến nội tiết
và cơ thể họ thường xuyên tiết ra các độc tố, tràn vào trong máu, khiến sắc mặt
họ thường u hãm, chứ không được tươi nhuận. Mắt nhìn thường đổ hào quang sắc
lạnh. Kẻ khác nhìn vào có cảm giác ớn sợ.
Ngược lại, một người có tâm địa hiền lương,
thường nghĩ đến điều lành, họ có tâm lý thoải mãi thư giãn, các cơ bắp, nhất là
các cơ vùng mặt không ở trong trạng thái co thắt, nên khuôn mặt họ thường đầy
đặn, sắc mặt tươi tắn, nhìn tự nhiên ta có cảm tình. Đối với nữ giới, có thể họ
không đẹp, nhưng vẫn ưa nhìn. Ta gọi là có duyên. Phụ nữ có duyên, mặt mũi phúc
hậu, khi lập gia đình họ thường có cuộc sống bình lặng hạnh phúc, ít gặp trắc
trở bất hạnh trong hôn nhân.
Ngày nay khoa học tiến bộ, con người có tham vọng làm
chủ mọi thứ bằng khoa học. Khoa giải phẫu thẩm mỹ có thể sửa chữa một số khuyết
tật trên thân thể con người và quả thật nó đã đạt được một số thành quả. Tuy
nhiên, nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy những kết quả đạt được rất hạn chế. Những bộ phận
thân thể được cắt xén, tỉa gọt, căng kéo không duy trì được hình dáng tự nhiên
và lâu dài. Nó thường để lại những di chứng và khi hết tác dụng nó trở thành
thảm họa như nhăn nhúm, chảy xệ, biến dạng…cho chủ nhân chúng. Điều này rất dễ
nhận thấy.
Trong khi đó, những người áp dụng phương pháp
tu dưỡng nhằm sửa chữa cái phần tâm linh như thiền, yoga lại có thể đạt được
kết quả khả quan và lâu dài hơn nhiều. Người ta thấy có những phụ nữ ở tuổi
thất tuần, nhưng cử chỉ vẫn linh hoạt, khuôn mặt vẫn gọn ghẽ xinh xắn mịn màng
như tuổi 50. Đó là sự thật. Tuy nhiên, nhiều khi con người ta không đủ tin
tưởng và kiên nhẫn để thực hành. Hơn nữa sẵn tiền bạc, họ đi đến các thẩm mỹ
viện cho nhanh và tiện.
Trong văn hóa dân gian của Việt Nam cũng như một số
các quốc gia Á châu khác, người ta có phong tục khi người phụ nữ mang thai, gia
đình thường chọn những hình vẽ những đứa bé xinh đẹp bụ bẫm để treo trong phòng
người mẹ. Nếu người mẹ thực sự không làm nghề gì xấu ác và có tâm địa hiền hậu,
thường họ sẽ sinh được những đứa con đẹp đẽ gần giống trong tranh vẽ.
Chính tâm lý (tâm) của người mẹ mang thai sẽ tạo
thành hình tướng (tướng) đứa con qua những biến đổi bí mật trong từng tế bào
của cơ thể họ. Người ta còn tránh không để cho thai phụ phải chứng
kiến chuyện dữ, phải nghe những lời ác. Sự hiểu biết về tâm lý trong văn hóa
Việt Nam như vậy không hề kém so với những kiến thức về tâm lý học hiện đại.
Ngoài ra, trong dân gian còn có những hiện tượng đôi
khi khó giải thích, nhưng qua chiêm nghiệm, người ta vẫn phải tin là có thật.
Chẳng hạn như người làm nghề đồ tể giết heo nhiều năm thường có khuôn mặt phảng
phất như mặt heo. Người ta cho rằng chính sự ám ảnh tâm lý trong một thời gian
dài đã tạo ra những đường nét trên khuôn mặt người đồ tể.
Những người chuyên làm thịt chó bán cũng thường mang bộ mặt hao hao giống loài vật họ giết. Rõ rệt nhất là những người làm nghề giết chó bán thịt đi đến đâu là chó sủa ran đến đó. Khi họ xuất hiện nhiều con chó bỗng nhiên sợ hãi quíu cả chân, đuôi cụp xuống, sủa không thành tiếng.
Những người chuyên làm thịt chó bán cũng thường mang bộ mặt hao hao giống loài vật họ giết. Rõ rệt nhất là những người làm nghề giết chó bán thịt đi đến đâu là chó sủa ran đến đó. Khi họ xuất hiện nhiều con chó bỗng nhiên sợ hãi quíu cả chân, đuôi cụp xuống, sủa không thành tiếng.
Các vị chân tu đạo hạnh cao cả, công đức sâu dầy,
nhiều khi sống rất âm thầm, ẩn dật, không hề có quyền chức địa vị, họ ăn mặc
đơn sơ giản dị, nhưng người phàm phu khi được diện kiến bỗng nẩy sinh lòng tôn
kính, mến mộ.
Dường như xung quanh họ tỏa ra một lớp sóng từ rất lạ khiến người
khác cảm thấy an lạc, dễ chịu. Những người như vậy không nhất thiết phải là
những chức sắc có địa vị cao trong các giáo hội. Có thể họ chỉ là một bà lão
bình thường, như Mẹ Théresa chẳng hạn hay sư cụ ở một ngôi chùa hẻo lánh ít ai
lui tới. Chuyện về các thánh tăng thì vô số. Nhưng trong đời sống ai may mắn mới
có duyên được diện kiến một vị chân tu./.
Thành Văn
HÃY NUÔI DƯỠNG ƯỚC MƠ
Sự sống nảy sinh từ cõi chết
Thất bại, người mẹ thành công
Quy luật cuộc sống sinh tồn
Dẫu chưa có những điều mơ ước
Em ơi, đừng tuyệt vọng
Phải nuôi dưỡng ước mơ
Cho dù ước mơ kia chỉ là mơ ước
Nhưng nó là ngọn nến cuối đường hầm
Thôi thúc người ta vượt qua bóng tối
Ước mơ như ngọn lửa soi đường
Đốt lên niềm tin, hy vọng tương lai
Em ơi, đừng tuyệt vọng
Cuộc sống có muôn ngàn cái đích Vươn tới
Hãy chọn cho mình một lối đi riêng
Em sẽ thấy, cuộc sống này đáng yêu biết
mấy
Trời trên đầu vẫn xanh
Đất dưới chân vẫn bình yên, nồng ấm
Và mỗi sớm mai, chim vẫn hót đầu cành
Hoa vẫn nở bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
"Em
ơi, đừng tuyệt vọng
Em ơi, đừng tuyệt vọng
Hãy nuôi dưỡng ước mơ”
TÁC
GIẢ:(Nguyễn Văn Trình).
SUỐI
NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
BƯỚC
SEN THỨ BẢY – QUẢ VỊ PHẬT
NHƯ
GIỌT NƯỚC LÁ SEN
XUÂN
TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU
KHÔNG NÊN QUÁ LO ÂU
SỰ TĨNH LẶNG TRONG MÂU THẪN CUỘC ĐỜI