Học trò
thuyết pháp đệ nhất của Phật Thích Ca
Phú Lâu Na được liệt vào danh sách 10 đại đệ tử
của Đức Phật Thích Ca với danh hiệu “Thuyết pháp đệ nhất” do chính Phật Thích
Ca công nhận và tán dương.
Chính
vì vậy, cho tới nay, những câu chuyện về khả năng thuyết pháp tuyệt vời của Phú
Lâu Na cho tới nay vẫn được lưu truyền như những minh chứng sống động về cuộc đời
vị đệ tử huyền thoại này của Đức Phật.
“Thuyết
pháp đệ nhất” Phú Lâu
Na tên đầy đủ là Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử nhưng vì tên ông quá dài nên người
ta thường gọi tắt là Phú Lâu Na. Phú Lâu Na sinh ra trong một gia đình thuộc hạng
giàu có và danh tiếng ở đất nước Già Tỳ La Vệ.
Người
ta nói rằng, Phú Lâu Na sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm với Đức Phật Thích
Ca.
Cha của
Phú Lâu Na là con trai của Tịnh Phạn Vương Quốc sư, còn mẹ ông tương truyền là
em gái của A Nhược Kiêu Trần Như, một người xuất thân dòng dõi Bà la môn được
cho là cao quý ở Ấn Độ thời bấy giờ.
Là người
thông minh nên ngay từ nhỏ Phú Lâu Na đã nhận ra rằng ái ân, tài sản của thế tục
rồi cũng tới lúc phải biệt ly tan rã.
Phú Lâu
Na được liệt vào danh sách 10 đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca với danh hiệu
“Thuyết pháp đệ nhất” do chính Phật Thích Ca công nhận và tán dương.
Chính
vì vậy, sau khi nghe chuyện thái tử Tất Đạt Đa tức Phật Thích Ca Mầu Ni đang
đêm bỏ cung điện đi tìm con đường cứu giải thoát khỏi những khổ nạn của thế tục,
Phú Lâu Na cùng với 30 người bạn đồng chí hướng đã quyết định xuất gia vào Tuyết
Sơn khổ hạnh tu hành.
Khi Phật
Thích Ca thành đạo, mở đàn thuyết pháp, Phú Lâu Na đã tìm tới xin được xuất gia
và thọ cụ túc giới. Không bao lâu sau, ông chứng quả A La hán.
Phú Lâu
Nam có tài năng đặc biệt trong hùng biện, thuyết phục người khác, do vậy, những
giáo lý của Đức Phật Thích Ca được ông truyền giảng không chỉ đầy đủ, sâu sắc
mà còn rất dễ hiểu.
Những
câu chuyện về khả năng thuyết pháp tuyệt vời của Phú Lâu Na cho tới nay vẫn được
lưu truyền như những minh chứng sống động về cuộc đời vị đệ tử huyền thoại này
của Đức Phật.
Hoằng
pháp ở Du Lô Na
Chuyện
kể rằng, một hôm, sau mùa an cư kiết hạ, Phú Lâu Na muốn lên đường hoằng hóa Phật
Pháp, phổ độ chúng sinh bèn đến thưa với Phật Thích Ca rằng:
- Bạch Thế Tôn! Xin
ngài từ bi cho phép con đến nước Du Lô Na thuyết pháp.
Đức Phật
nghe Phú Lâu na nói thì rất vui, tuy nhiên, do Du Lô Na là nước ở vùng xa xôi,
người dân còn rất lạc hậu, hung dữ nên việc một người nước ngoài tới nơi đây
thuyết pháp là điều không dễ. Chính
vì thế, Đức Phật mới nói với Phú Lâu Na rằng:
- Phú Lâu Na! Việc giáo hóa chúng
sinh, lợi mình lợi người, ta rất vui vì ý định của ông. Ông đi giáo hóa các nơi
ta đều an lòng. Nhưng ta bảo ông đi hoằng pháp không nhất định phải đi đến nước
Du Lô Na. Tốt nhất
ông nên chọn nơi nào khác rồi sẽ đi.
Phú Lâu Na nói:
- Vì cớ gì thưa Thế Tôn. Hễ
nơi nào có chúng sinh đáng độ thì chẳng phải có thể đến đó dạy dỗ cho họ hay
sao?
Đức Phật
giải thích:
- Phú Lâu Na! Du Lô Na là một nước nhỏ hẻo lánh, không có đường giao
thông thuận tiện nên giáo hóa chẳng được như ý. Dân
chúng tính tình rất hung bạo, đánh chửi thành thói quen. Là người nước ngoài đến
nước đó, chẳng lẽ ông không sợ nguy hiểm sao?
Nghe Phật
nói như vậy, Phú Lâu Na biết rằng Đức Phật lo lắng cho mình thì mỉm cười nhưng
chí ông đã quyết tới Du Lô Na vì vậy ông đã nói với Đức Phật rằng:
- Thưa Thế
Tôn! Ngài từ bi thương tưởng chúng đệ tử, con không thể dùng lời diễn tả mối cảm
kích. Con vì
cảm động ơn ấy mà nguyện đem thân nhỏ mọn nầy phụng hiến cho Đức Phật, phụng hiến
chính pháp và tất cả chúng sanh. Chính
vì Du Lô Na là một nước biên địa hoang dã, trước đây chưa ai phát tâm giáo hóa,
nên con mới nghĩ rằng không đến đó không xong. Đến đó,
con cũng biết có rất nhiều nguy hiểm đang đợi mình, nhưng vì muốn tuyên dương
chánh pháp, thì sự an nguy của con không còn là vấn đề quan trọng. Cúi xin Đức
Thế Tôn từ bi cho phép con đi khai mở một cõi tịnh độ nhân gian.
Nghe
Phú Lâu Na nói vậy, Phật Thích Ca rất hài lòng và sẵn lòng để Phú Lâu Na tới Du
Lô Na. Tuy
nhiên, Đức Phật muốn nhân cơ hội này để các đệ tử khác biết được hành động hoằng
pháp cao cả bất chấp hiểm nguy của Phú Lâu Na nên tiếp tục hỏi ông:
- Phú Lâu
Na! Ông nói đúng, làm đệ tử ta, hoằng pháp là việc tu hành trọng yếu thứ nhất.
Nhưng
ta hỏi ông, ông đến nước Du Lô Na , nếu họ không chấp nhận ông mà lớn tiếng chửi
mắng thì ông làm sao?
Phú Lâu Na thưa:
- Bạch Thế Tôn! Họ chửi mắng con, con vẫn
thấy họ còn tốt vì họ chưa lỗ mãng đến nỗi dùng roi gậy đánh đập con.
Đức Phật
hỏi tiếp:
- Nếu họ dùng nắm tay, gạch ngói, roi gậy đánh đập ông thì sao?
Phú
Lâu Na đáp:
- Con vẫn thấy họ còn tốt, chưa đến nỗi đâm chém con.
Phật lại
hỏi:
- Nếu như họ dùng dao búa thì làm sao?
Phú Lâu Na thưa:
- Con cũng cho họ rất
tốt vì họ còn tình người chưa đến nỗi giết con.
Phật lại
hỏi:
- Nếu như họ giết ông chết?
Phú Lâu Na trả lời Phật rằng:
- Nếu thế con cám
ơn họ đã giết sắc thân của con để hỗ trợ cho đạo nghiệp của con. Họ giúp
con đem sinh mạng báo đáp ân đức của Thế Tôn. Điều ấy đối với con tuy không có
trở ngại chỉ sợ di hại ảnh hưởng không tốt cho họ mà thôi.
Nghe
Phú Lâu Na trả lời như vậy, Đức Phật tỏ ra rất vui, cười và khen ngợi ông:
- Phú
Lâu Na! Ông thật xứng đáng là đệ tử hạng nhất của ta. Với tâm nhẫn nhục thì ông
sẽ an bình, ta sẽ đưa ông lên đường.
Phú Lâu
Na được Phật khuyến khích nên rất cảm động, tràn đầy tự tin với chuyến hoằng
pháp ở Du Lô Na. Sau khi
làm lễ với Phật Thích Ca, Phú Lâu Na lên dường tới Du Lô Na giữa những tiếng
hoanh nghênh của đoàn tỳ kheo.
Sau khi
cáo biệt đức Phật và tăng đoàn, Phú Lâu Na một mình mải miết đi về hướng Đông Bắc
đến nước Du Lô Na. Nước Du Lô Na đất xấu dân nghèo, chỗ nào không có núi cao
thì cũng có nước sâu. Phong thổ
của đất nước này hơi giống như nước Mông Cổ. Khắp nơi không có đô thị phồn hoa,
mà nhân dân chỉ sinh sống bằng nghề săn bắn, “ăn lông ở lỗ” và rất ít xóm làng
đông đúc.
Khi Phú
Lâu Na mới đến, do là một người nước ngoài, nên ông biết rằng, muốn hoằng pháp
thành công, trước tiên ông phải học cho được ngôn ngữ bản xứ của người Du Lô
Na. Chính
vì vậy, Phú Lâu Na đã dành nhiều tâm huyết để học tiếng nói của người dân nơi
đây. Tiếng
nói của người dân Du Lô Na thì không mấy khác biệt với ngôn ngữ Ấn Độ nên Phú
Lâu Nam học rất nhanh. Tuy nhiên, khó khăn duy nhất của ông không phải là tiếng
nói.
Người
dân nơi đây khi thấy ông mặc áo nhà Phật và mang bình bát khất thực thì đều
nhìn ông với ánh mắt rất kỳ quái. Phú Lâu
Na nhận ra rằng, đối với một nước văn hóa lạc hậu như Du Lô Na, nếu đem giáo lý
cao siêu của Đức Phật ra giảng sẽ không bao giờ thành công được, nên ông quyết
định sẽ giúp người dân nơi đây cải thiện đời sống trước rồi mới tính tới chuyện
hoằng pháp sau. Nghĩ
như vậy nên Phú Lâu Na quyết định không cho người dân nơi đây biết thân phận tu
sĩ của mình mà chỉ làm việc như một người thầy thuốc chữa bệnh cứu người.
Hàng
ngày, ông thăm bệnh cho mọi người bất kể họ ở đâu, xa xôi cách trở thế nào. Hễ
nơi đâu có người bị bệnh là ông tìm đến. Chính nhờ sự tận tâm này, ít lâu sau
người dân Du Lô Na đã coi ông như một vị cứu tinh của họ. Ngoài
tư cách một thầy thuốc, Phú Lâu Na còn dạy cho người dân Phú Lâu Na biết cách
trồng trọt để dự trữ thức ăn vào mùa lạnh, mùa không thể săn bắn được.
Ông còn
dạy cho họ biết chữ. Sau khi người dân nơi đây đã có cuộc sống khấm khá hơn, mọi
người đều đã được học hành, hiểu được chữ nghĩa, ông mới đem giáo lý của Phật
Thích Ca giảng giải cho họ. Thế là, chẳng bao lâu sau, người dân nước Du Lô Na
đều quy y theo Phật.
Chính tại
nơi đây, Phú Lâu Na đã thu phục 500 đệ tử và thành lập 500 ngôi tịnh xá. Đức Phật
rất vui về công cuộc giáo hóa của Phú Lâu Na ở Du Lô Na, đã tuyên bố trước các
đệ tử rằng: “Trong hàng đệ tử ta được như Phú Lâu Na mới xứng đáng với danh
xưng đệ nhất thuyết pháp. Các ông nên noi theo gương của Phú Lâu Na”.
Khi Phật
Thích Ca nhập diệt, Phú Lâu Na vẫn ở nước ngoài hoằng dương đạo pháp nên không
về kịp để thấy mặt Đức Phật lần cuối. Khi ông cùng các đệ tử của mình về tới
thành Câu Thi Na thì kim thân của Đức Phật đã được trà tỳ. Phú Lâu
Na rất đỗi thương tâm vì chuyện ấy nhưng cũng rất quan tâm tới giáo pháp của Phật.
Khi
nghe tin Đại Ca Diếp cùng 500 vị A La Hán cùng nhau kết tập kinh điển lần thứ
nhất tại núi Kỳ Xà Quật, ông đã vội tới tham dự. Tuy nhiên, sáng hôm sau, khi
ông tới nơi thì cuộc kết tập đã gần kết thúc. Thấy
ông đến, Đại Ca Diếp liền nói:
- Ngài đến rất đúng lúc. Chúng tôi kết tập giáo
pháp của Phật gần xong, đang chờ ý kiến của ngài.
Phú Lâu
Na lắng nghe tỉ mỉ phần kết tập xong nói với Đại Ca Diếp rằng:
- Về nội dung
toàn bộ tôi không có gì bàn bạc thêm, nhưng về phần luật tạng có liên hệ đến 8
pháp ẩm thực mà các vị đã ngăn cấm, tôi khó mà đồng ý bởi vì điều ấy trái với bản
ý của Phật. Chính Đức Phật cho phép tám việc trên.
Đại Ca
Diếp là vị trưởng lão quyền uy trong tăng đoàn, từ trước tới nay chưa ai dám
đưa ra ý kiến trái ngược với ông. Dù
trong lòng nhiều người có không vui nhưng ngoài mặt vẫn thản nhiên như không.
Tuy nhiên, Phú Lâu Na thì sẵn sàng nói ra điều ấy, vì ông cho rằng những gì ông
nói là đúng với giáo pháp mà Phật đã dạy.
Cả hai
người đều biện luận cho lý lẽ của mình, thành ra không giải quyết được là nên cấm
hay không. Cuối
cùng Phú Lâu Na đành nói:
- Đã không thống nhất được thì từ đây tôi chỉ giữ theo
những điều tự thân nghe được từ Phật và theo sự lĩnh ngộ của tôi mà thôi.
Phú Lâu
Na nói xong lại lên đường tiếp tục hành trình hoằng pháp. Ông nhập diệt ở đâu
và lúc nào thì sử sách Phật giáo không nhắc tới. Chỉ biết rằng, ngay cả sau khi
Đức Phật đã nhập diệt, Phú Lâu Na vẫn tiếp tục đi giáo hóa ở khắp nơi với lòng
nhiệt tâm không đổi.
BẰNG HƯ
Buông Xả
Buông ra thôi hãy buông ra
Biết bao phiền muộn ta bà thế gian
Sóng tâm thù oán võ vàng
Biển đau cuồng quẫy muôn ngàn phong ba
Hãy yêu thương hãy thứ tha
Nhìn đời thân thiết chan hòa bao dung
Đường đời sỏi đá chập chùng
Dắt dìu nhau nhịp bước chung đường đời
Con thuyền vượt sóng mù khơi
Buồm căng gió lộng thảnh thơi nhịp chèo
Xanh xanh đồi núi thông reo
Cỏ non mơn mởn lưng đèo bóng xuân
Dẫu là trong cõi phù vân
Giác tha tự giác bước trần nhẹ tênh
Trầm Vân
Kính mời tham khảo những bài viết theo link:
LÀM
SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?
TÁM
ĐIỀU NGƯỜI TRÍ CẦN BIẾT RÕ.(PHTQ 16)
HẠNH
BỐ THÍ (CTLĐ 1)
QUA
CƠN MÊ (CTLĐ 2)
Ý
NGHĨA CÔNG ĐỨC VÀ PHƯỚC ĐỨC