Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí
Mỗi
năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh
phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó
có những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các
chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi
quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện
quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa,
như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi
của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo
vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc
tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được
nhiều hạnh phúc trong năm mới.
Trong phẩm Phổ
Môn, có đoạn:
“Bồ Tát Quán Thế Âm
nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót
hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na
la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm
chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích
Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.
Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền
não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên
cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ
Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không
rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người
phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật,
và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá
chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.
* Lục độ ba la mật
gồm có:
-
Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và
an ủi người.
-
Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ
lời nói và hành động .
-
Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh
khi hoặc gặp khó khăn.
-
Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm
chí vững bền.
-
Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não
loạn trong mọi hoàn cảnh.
-
Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ,
không còn si mê.
*Bát chánh đạo gồm
có:
- Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu
rõ vô thường, nhân quả.
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh,
không trái với chân lý và lẽ phải.
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói
những lời thô ác, dối gạt.
- Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm
những việc ác nghiệp.
- Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm
những nghề bất thiện.
- Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới,
tu hành, không lười mỏi.
- Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ,
đang nói và đang làm.
- Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên,
không còn si mê loạn động.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của
Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức
Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng
dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
Cúng
dường Ðức Phật Thích Ca:
Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài
trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế
Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài
chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ
chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát
từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người
thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ
chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm
sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải
thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của
Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được
chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.
Tham
ái sanh ưu tư
Tham
ái sanh sợ hãi
Ai
giải thoát tham ái
Không
ưu, không sợ hãi.
(Kinh Pháp Cú)
Tâm
từ thắng nóng giận
Tâm
thiện thắng ác hung
Tâm
thí thắng tham lam
Tâm
chơn thắng dối trá.
(Kinh Pháp Cú)
Hành
Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật,
với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân,
còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví
như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường
Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.
Cúng dường Đức Phật
Ða Bảo:
Ðức
Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu
cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự
thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não
khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và
phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát
không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ
Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô
ngã vị tha” tuyệt đối.
Ðức
Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng
dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người
tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ
bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn
giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống
khổ cho nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát
Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân
và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm
một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ
Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn
trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô
cùng.
Bồ
Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về
mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ
Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể
ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ
của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế
Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả
năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí
tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán
Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.
Hiểu rõ chân lý nhân
quả, con
người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không
ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh
thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm,
chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin
nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và
ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền
miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được
những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít
đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự
tại.
Ða dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
(Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
Như
lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính,
chứ không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là
hại chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân
nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai,
nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ
chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi,
tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.
Trì
niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về
trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương
Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam
sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm
ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ
triền miên từ trước đến giờ.
. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân
hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ
lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng
si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích: Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh,
xiềng xích không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ
lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.
Có
câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:
Theo
thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một
đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ
phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của
các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường
trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi
những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát
quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù
ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công
đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm
nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại
chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ
bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm,
giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ
giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong
bất cứ cảnh ngộ nào.
Tóm
lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo
phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu
tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ
xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức
Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm,
thương xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và
sau đó Đức Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường
Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở
đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt
được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô
ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và
chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
CỐT LÕI CỦA ĐẠO PHẬT LÀ
GÌ?
Lê Sĩ Minh Tùng
Cốt lõi của giáo lý Phật Đà trong suốt 49 năm hoằng pháp của Ngài
là giúp chúng sinh thoát khổ và giải thoát mà không cần trông đợi vào bất cứ
tha lực nào bởi vì Phật giáo là tín ngưỡng tự lực.
Nhưng tại sao con người phải khổ?
Nhưng tại sao con người phải khổ?
Bất cứ ai sinh ra trong
thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng
sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của
họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích
kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng
phát. Ta thì lo ích kỷ cho riêng ta, người thì lo ích kỷ cho người vì thế con
người bắt đầu tranh chấp, đố kỵ, hơn thua, lo bảo vệ Cái Tôi và những cái thuộc
về Tôi. Cảm tính về Cái Tôi và Cái Của Tôi được xem là sự bám víu, chấp thủ một
khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần và nỗi khổ niềm đau cũng bắt đầu phát sinh từ
đó.
Ngã chấp phát triển như thế nào?
Ngã chấp phát triển như thế nào?
Một đứa bé mới sinh ra
đời chưa có cảm tính về một “Cái Tôi” riêng biệt trong tâm thức của nó. Dần
theo môi trường sống lớn lên, đứa bé được cha mẹ, những người thân chung quanh
nhét vào trong tâm thức những ý niệm về Cái Của Tôi. Đây là cha mẹ của nó, thức
ăn của nó, cái giường ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng của nó, cái chén
cái ly này là của nó, anh chị em của nó….Vì là của nó nên nó phải bảo vệ giữ
gìn Cái Của Nó từ đó tâm thức bắt đầu phát triển những ý niệm ích kỷ hẹp hòi.
Cái Tôi ấy mỗi ngày tiếp tục biến đổi và sinh trưởng dưới tác động của những
điều mà nó học hỏi mới và các kinh nghiệm mới trong cuộc sống và trong tâm thức
của nó lúc nào cũng có Cái Tôi mới khác hẳn với Cái Tôi trước đó.
Nói chung Cái Tôi thay
đổi từ lúc còn bé thơ, dần đến trưởng thành và sau cùng là đến lúc mạng chung.
Mỗi thời điểm trong cuộc đời có một Cái Tôi khác biệt, nào là Cái Tôi lúc còn
đi học, Cái Tôi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, Cái Tôi của những cặp nhân tình,
Cái Tôi của những đấng cha mẹ, Cái Tôi của những người lớn tuổi và cuối cùng
Cái Tôi của người sắp hấp hối. Nói chung, Cái Tôi đang tuần tự biến dạng trong
kiếp sống này qua những thể dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi
già nua và sau cùng nhờ vào cái chết để trở thành Cái Tôi của một đứa bé khác
dưới một cái tên gọi khác, vào trong một gia đình khác, một dòng họ khác, một
quê hương khác, một tôn giáo khác và dĩ nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh
nghiệm, ký ức, kiến thức từ kiếp trước dưới hình thức những vết hằn ghi đậm
trên dòng tri thức liên tục của nó.
Con người cố bám víu vào Cái Tôi và Cái Của Tôi dưới đủ mọi hình thức và họ quan niệm rằng Cái Tôi chính là sự sống trong cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.
Con người cố bám víu vào Cái Tôi và Cái Của Tôi dưới đủ mọi hình thức và họ quan niệm rằng Cái Tôi chính là sự sống trong cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.
Thí dụ nếu xem thân xác
này là Của Tôi thì chắc chắn chúng ta phải trau chuốt, chưng diện, phấn son,
trang sức lấp lánh, áo lụa quần là, tạo công danh phú quý cho Cái Tôi hưởng,
mua nhà to đắt tiền cho Cái Tôi ở, mua cao lương mỹ vị cho Cái Tôi dùng, tranh
công đoạt chức cho Cái Tôi hãnh diện. Xa hơn nữa có người cắt bớt chỗ này, độn
thêm chỗ kia cho cái thân thể Của Tôi thêm hấp dẫn, rực rỡ huy hoàng…Nhưng thân
này thực sự nó là Của Ta chăng? Nếu nó là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo
nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì tại sao
Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát bụi?
Tệ hại hơn nữa, nếu bây
giờ nghĩ rằng tâm thức là Của Ta thì sự ích kỷ sẽ bùng lên, hận thù dấy khởi,
tự ái dày vò, tham lam xúi dục, trong tâm dấy lên bao nhiêu hy vọng, ước mơ,
mưu mô, tiếc nuối, thương yêu, ghét bỏ…từ đó phát sinh biết bao ảo giác và
tưởng tượng không thiết thực và đây chính là đầu dây mối nhợ cho biết bao sự lo
âu, phiền muộn và tranh chấp trong cuộc đời. Có chiến tranh giết chóc cũng bởi
vì con người luôn bảo vệ những quan niệm rằng đây là nhà Của Tôi, gia đình Của
Tôi, đất nước Của Tôi, quê hương Của Tôi, chùa Của Tôi, tôn giáo Của tôi, giáo
hội Của Tôi…Bạn có biết trước khi đến thế giới này, kiếp trước bạn ở đâu không?
Quê hương nào thực sự là của bạn? Quê hương bây giờ, quê hương trong kiếp quá
khứ hay quê hương trong những kiếp tương lai? Cái nhà nào là cái nhà Của Ta?
Nếu thật sự là Của Ta thì tại sao bạn không đem nó theo khi bạn chết mà phải bỏ
lại hết cho thế gian? Có phải đó là con cái Của Ta, vợ chồng Của Ta, cha mẹ Của
Ta chăng? Một khi ý niệm Của Ta tiềm ẩn trong tâm thức thì những khuynh hướng
như ích kỷ, làm chủ, độc tài, độc đoán sẽ phát hiện khiến cho cuộc sống trong
gia đình thiếu thăng bằng, mất hạnh phúc. Bạn có hài lòng (hạnh phúc) khi
người khác làm chủ (control) bạn không? Có phải tờ giấy hôn thú bảo đảm bạn làm
chủ cuộc đời của người hôn phối chăng? Nếu thế thì tại sao hằng ngày có biết
bao cặp vợ chồng dắt nhau ra tòa ly dị? Nó là con cái Của Ta thì tại sao chúng
nó không nghe lời Của Ta?
Dựa theo tinh thần Phật
giáo, không có gì trên thế gian là Cái Tôi hay Cái Của Tôi cả. Tất cả chỉ là do
nhân duyên tác tạo. Vợ chồng là do duyên nợ mà thành. Hai người đã có nợ nần từ
tiền kiếp, bây giờ có đủ duyên gặp lại nhau thì kết thành vợ chồng trở lại để
trả hết những nợ nần kiếp trước và dĩ nhiên tiếp tục tái tạo nợ nần cho mai
sau. Nếu không có nợ mà chỉ có duyên thì họ chỉ yêu nhau qua một giai đoạn rồi
gặp trắc trở và cuối cùng cũng phải chia tay. Tình yêu bên ngoài có thể che phủ
bằng những bông hoa tươi thắm, nhưng thật ra bên trong nó được che lấp bằng
những bản chất ích kỷ và hưởng thụ của con người. Chính bản năng hưởng thụ đã
thúc đẩy trai gái tìm đến với nhau và cũng chính cái bản năng ích kỷ đó (Cái
Của Tôi) đã thúc đây họ làm khổ cho nhau. Do đó nếu con người biết đem tình
thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng và vị tha vào trong cuộc sống thì
tình yêu đó sẽ không còn đậm màu sắc ảm đạm của bản năng ích kỷ.
Thông thường, do lòng đố
kỵ và ích kỷ, chúng ta ít chịu chấp nhận cái hay của người khác vì người khác
nổi bật sẽ làm chúng ta bị lu mờ. Chúng ta thờ ơ trước những ưu điểm của kẻ
khác và vui mừng khi tìm thấy khuyết điểm của người vì người lu mờ thì ta sẽ
nổi bật. Do tâm vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức
là khen mình, chê người. Đây là cội nguồn phát sinh ra phiền não và tạo nghiệp
cũng tại vì cái ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính vị kỷ nầy bằng tinh thần vị tha
thì cuộc sống sẽ an vui tự tại. Thấy người giỏi thì khen, thấy người giàu thì
mừng, thấy người khổ thì giúp. Thực hành như vậy thì phiền não không còn và
những nguyên nhân gây ra phiền não cũng chấm dứt.
Thêm nữa, trong đời quá
khứ nếu kết duyên với con cái thì đời nầy chúng ta gặp lại chúng. Nếu là phước
duyên thì chúng đến để báo đền ơn nghĩa ngày xưa. Chúng quan tâm, lo lắng và
giúp đỡ mọi chuyện cho cha mẹ. Chúng cố gắng học hành, trở thành người tốt để
đem niềm vui cho cha mẹ. Còn nếu là ác duyên có nghĩa là chúng đến để đòi nợ,
gây khổ cho cha mẹ. Cha đau mẹ yếu chúng chả cần quan tâm. Chúng chỉ thích ăn
chơi trác táng, phung phí tiền bạc, tương lai đen tối và gây phiền não cho gia
đình. Thay vì cố gắng tạo dựng một tương lai tốt đep cho cuộc đời của mình thì trong
tâm chúng chỉ để ý đến cái gia sản to lớn của cha mẹ mà thôi. Thế thì cái gì là
con cái Của Ta?
Đức Phật sinh ra trong
cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn
phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là
hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì những nhát đao, những
thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn trong tâm hồn nhất
thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người
giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất hạnh đau đớn dành riêng
cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm đau theo lối vua chúa,
ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao
chúng sinh lại phải khổ?
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Con người vì bị vô minh
che lấp nên không nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi
chấp thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Tôi” và những cái gì gọi là “Cái Của
Tôi”. Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng
gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng Đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải
thật sự là “Cái Của Tôi mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong
khái niệm. Nó là một hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy
thôi. Còn ngôi nhà thật sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức.
Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó
chính là nguyên nhân tạo từ lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn từ lo nọ đến áy
náy buồn phiền kia.
Vì nó ở ngoài ta tức là
vật ngoại thân nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào
nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà
ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta mà là
một phần của thế gian. Do đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành
động tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm
trong phạm vi ảnh hưởng của vô minh, sai khiến con người luyến ái, đeo
níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người lặn
hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống là có
khổ.
Nói chung khổ là trạng
thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh phúc mà
con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó
phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả.
Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà
con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất
đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.
Thêm nữa, dựa theo
thuyết “Nghiệp cảm duyên khởi” của đạo Phật thì tất cả những chủng tử thiện, ác
chẳng những từ đời này mà còn bao nhiêu đời quá khứ phát xuất từ ý nghĩ, lời
nói và hành động của con người đều được lưu giữ trong A lại da thức (nhân). Khi
hội đủ duyên thì chủng tử thiện, ác đó sẽ biến thành quả và đây là những kết
quả khổ, vui mà con người thọ báo trong đời này và cho những đời kế tiếp. Thí
dụ mảnh vườn phía sau nhà, chúng ta gieo nhiều loại hạt giống (chủng tử) khác
nhau (nhân). Vì chúng nằm dười lòng đất nên mắt thường không thấy được cho nên
có lúc chúng ta nghĩ rằng những hạt giống đó không còn hay đã chết. Sau nhiều
trận mưa rào và trời ấm áp (duyên) thì chúng bắt đầu nẩy mầm (quả). Điều quan
trọng nhất là giống nào nẩy mầm theo giống nấy, không bao giờ lộn lạo. Thí dụ
giống cây cải thì sinh ra cây cải, giống ớt thì sinh ra cây ớt…Tuyệt đối không
bao giờ có chuyện trồng ngò mà thành cây ớt được nghĩa là nhân thiện thì thọ
lãnh quả lành, ngược lại nhân ác thì chắc chắn sẽ thọ lãnh quã dữ. Vì thế, nếu
con người biết huân tập nhiều hạt giống thiện thì những chủng tử lành đó có
công năng dẫn dắt họ tái sinh vào những cảnh giới an lành để tiếp tục hưởng
những quả báo tốt đẹp.
Ngược lại thì phải thọ
báo vào cảnh giới khổ não, đau thương. Nghiệp là hành động lập đi lập lại nhiều
lần rồi thành thói quen tức là tập khí. Chính cái thói quen, hay tập khí này có
sức mạnh phi thường mà Phật giáo gọi là nghiệp lực để tùy duyên, chiêu cảm đến
môi trường thích hợp mà thọ sinh, nên gọi là nghiệp cảm. Tuy nhiên, đạo Phật là
đạo chuyển nghiệp nghĩa là trong quá khứ cho dù con người vì sống trong vô minh
bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân). Nhưng nếu bây giờ biết thức tĩnh,
dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác nghiệp, tạo nhiều thiện nghiệp thì
những ác nhân đó không có cơ hội tác tạo với ác nghiệp để gây ra cảnh khổ cho
mình. Nhân (Cause) mà không có duyên (Conditions) thì tuyệt đối không bao giờ
thành quả (Effect). Cũng như gạo (nhân) mà không có nước, không nấu (duyên) thì
không bao giờ thành cơm được (quả).
Ngày nay con người thay
vì cố tìm cách thay đổi cuộc sống cho phù hợp với đạo đức nhân bản thì họ nhắm
mắt đi tìm phước báo. Giáo lý của Đức Phật rất ngắn gọn, đó là nên tránh xa các
việc ác và cố gắng làm các việc lành. Khi đã thành tựu rồi thì cố gắng giữ gìn
tâm ý cho được thanh tịnh là có giải thoát. Nhưng đa số người tu Phật cừ lờ đi,
tuy họ cũng làm việc thiện mà không muốn buông bỏ những thói quen xấu của mình.
Do đó đi tìm phước báo mà không buông bỏ tánh ác thì không bao giờ có. Tất cả
hành vi thiện, ác đều do từ thân, khẩu, ý mà ra cho nên đó là nơi mà bạn phải
nhìn lại mình mà nhà Phật gọi là “Phản quang tự kỷ” nghĩa là soi xét lại mình,
quán chiếu lại mình, từ thân thể cho tới nội tâm, thấy rõ thân thể, nội tâm như
thế nào. Trong khi đó “Hồi quang phản chiếu” có tánh cách đặc biệt dành cho bậc
thượng cơ, nhất là những vị tu thiền trong Phật giáo.
Nhìn xem hành vi của bạn
có sai trái hay không? Chúng ta hằng ngày cố gắng cực nhọc lo lau sạch nhà cửa,
xe cộ, chén bát nhưng lại quên không nhìn lại sự dơ bẩn trong tâm của mình. Bởi
vì không thấy chính mình, con người mới có thể làm đủ điều xấu. Khi trong tâm
vừa thoáng lên một ý nghĩ xấu, họ nhìn chung quanh xem có ai nhìn thấy ý đồ đó
không rồi họ mới làm. Nhưng họ quên rằng có người biết và người đó không ai
khác là chính mình (lương tâm). Nếu biết nhìn vào chính mình thì bạn sẽ biết
phân biệt thiện, ác rất rõ ràng. Nếu bạn sắp làm một việc ác, bạn nhìn vào
chính mình đúng lúc thì bạn có thể dừng lại. Thông thường vì nhìn ở bên ngoài
nên tâm con người chứa đầy tham vọng và ảo tưởng, nhưng bây giờ nếu nhìn vào
bên trong, nhìn lại chính mình thì bạn sẽ thấy rất rõ điều thiện và điều ác.
Thấy điều thiện nhắc nhở chúng ta cố gắng làm y như vậy. Buông bỏ điều ác, thực
hành điều thiện là có phước báo ngay.
Đức Phật dạy rằng: “ Chúng sinh nếu muốn vun bồi phước báo của
mình cho được viên mãn thì hãy lánh xa điều ác” nghĩa là nếu mình không làm
điều ác thì tất cả việc làm bây giờ đều trở thành thiện hết mà không cần phân
biệt thiện, ác gì cả. Ngược lại tuy có làm vài điều thiện, nhưng vẫn còn làm
điều ác thì vẫn còn lo lắng, ưu bi, khổ não triền miên.
Do đó, nếu tâm của chúng
ta thiện lành và đức hạnh thì đây là hạnh phúc trong đời này vậy. Đối với con
người hạnh phúc là diễn tiến theo ý muốn của họ, là khi mà mọi người trên thế
giới chỉ nói những lời tốt đẹp đối với họ, nhưng nếu thực sự đây là hạnh phúc
mà bạn mong muốn thì chính bạn đã xây lâu đài trên cát. Không những người ngoài
làm chúng ta bực bội mà ngay cả những người thân yêu quanh chúng ta đôi khi
cũng làm cho chúng ta buồn phiền, ưu bi, khổ não. Thậm chí, chính chúng ta cũng
làm cho chúng ta buồn bực, không vui. Vì vậy, nếu bạn biết nhìn lại chính mình
để buông bỏ điều ác thì chính mình sẽ có hạnh phúc bởi vì tâm lành thì không có
lo âu, phiền não. Khi tâm thanh thản, bạn nở một nụ cười. Ngược lại tâm rối
ren, lo lắng thì lòng bực dọc, mặt khô cằn, hung hăng, tức giận.
Tôn chỉ của đạo Phật là
giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau để có cuộc
sống an vui tự tại mà muốn đạt đến cứu cánh này thì chúng sinh phải biết buông
xả. Vì thế trong Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm gọn cốt
lõi của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn cho những ai muốn đi trên con
đường giải thoát giác ngộ, đó là”Không được bám víu vào bất cứ gì cả” mà
Kinh Kim Cang gọi là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là một khi mắt, tai,
mũi, lưởi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà tâm không
bám víu, chấp thủ.
Cùng ý niệm đó, trong
kinh Bahiya Sutta, Đức Phật giảng giải cho một đệ tử tên là Bahiya về sự bám
víu, chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần như sau:
"Này Bahiya,
Khi nhìn thấy một hình tướng, thì đấy chỉ là cách trông thấy.
Khi nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ là cách nghe thấy.
Khi ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là cách ngửi thấy.
Khi nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách nếm thấy.
Khi xảy ra một sự cảm nhận trên thân xác, thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.
Và mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì đấy cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra trong tâm thức.
Đấy là cách không có cái ngã.
Đấy là sự chấm dứt của dukkha (khổ đau). Đấy là nibbâna (niết-bàn).
Bài kinh trên tuy ngắn gọn, nhưng rất quan trọng. Vậy hãy nghiệm xem
"Này Bahiya,
Khi nhìn thấy một hình tướng, thì đấy chỉ là cách trông thấy.
Khi nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ là cách nghe thấy.
Khi ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là cách ngửi thấy.
Khi nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách nếm thấy.
Khi xảy ra một sự cảm nhận trên thân xác, thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.
Và mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì đấy cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra trong tâm thức.
Đấy là cách không có cái ngã.
Đấy là sự chấm dứt của dukkha (khổ đau). Đấy là nibbâna (niết-bàn).
Bài kinh trên tuy ngắn gọn, nhưng rất quan trọng. Vậy hãy nghiệm xem
Đức Phật muốn dạy chúng
ta những gì?
1)Khi mắt nhìn thấy hình tướng nào đó thì chỉ cần biết là mắt thấy hình tướng là đủ, đừng cho rằng mắt Ta thấy hình tướng đó thì sẽ vắng bóng Cái Ta và Cái Của Ta trong tâm thức. Tại sao? Thí dụ nếu mắt thấy chiếc xe thì chỉ là chiếc xe thôi cũng như mắt thấy trăm ngàn vật thể khác cho nên cái thấy đó không có dính mắc, cái thấy dững dưng không có gì quan trọng. Đó là thấy mà cũng như không thấy nên tâm không giao động. Ngược lại nếu cho là mắt Ta thấy chiếc xe thì cái thấy bây giờ là mình thấy, mình đem hình bóng chiếc xe đó vào tâm mình rồi ái dục phát sinh, lòng tham đắm nỗi dậy và nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Nếu cố gắng làm đêm làm ngày để có tiền mua chiếc xe giống vậy thì quá khổ, còn muốn mà không được thì quá khổ tâm.
2)Khi tai nghe tiếng nhạc thì biết là tai đang nghe nhạc. Đừng cộng thêm ngã chấp vào mà nghĩ rằng tai Ta đang nghe nhạc.
3)Khi mũi ngửi mùi hương thì biết mũi đang ngửi mùi hương thế thôi.
4)Khi lưỡi nếm vị ngọt thì biết lưỡi đang nếm vị ngọt là đủ.
5)Khi thân đụng phải vật cứng hay mềm thì biết thân đang đụng vật cứng hay mềm chớ đừng cho rằng thân Ta đang đụng vật cứng hay mềm.
6)Cuối cùng khi có một tư tưởng hiện ra trong tâm thức thì biết có tư tưởng đang hiện ra trong tâm thức là đủ.
1)Khi mắt nhìn thấy hình tướng nào đó thì chỉ cần biết là mắt thấy hình tướng là đủ, đừng cho rằng mắt Ta thấy hình tướng đó thì sẽ vắng bóng Cái Ta và Cái Của Ta trong tâm thức. Tại sao? Thí dụ nếu mắt thấy chiếc xe thì chỉ là chiếc xe thôi cũng như mắt thấy trăm ngàn vật thể khác cho nên cái thấy đó không có dính mắc, cái thấy dững dưng không có gì quan trọng. Đó là thấy mà cũng như không thấy nên tâm không giao động. Ngược lại nếu cho là mắt Ta thấy chiếc xe thì cái thấy bây giờ là mình thấy, mình đem hình bóng chiếc xe đó vào tâm mình rồi ái dục phát sinh, lòng tham đắm nỗi dậy và nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Nếu cố gắng làm đêm làm ngày để có tiền mua chiếc xe giống vậy thì quá khổ, còn muốn mà không được thì quá khổ tâm.
2)Khi tai nghe tiếng nhạc thì biết là tai đang nghe nhạc. Đừng cộng thêm ngã chấp vào mà nghĩ rằng tai Ta đang nghe nhạc.
3)Khi mũi ngửi mùi hương thì biết mũi đang ngửi mùi hương thế thôi.
4)Khi lưỡi nếm vị ngọt thì biết lưỡi đang nếm vị ngọt là đủ.
5)Khi thân đụng phải vật cứng hay mềm thì biết thân đang đụng vật cứng hay mềm chớ đừng cho rằng thân Ta đang đụng vật cứng hay mềm.
6)Cuối cùng khi có một tư tưởng hiện ra trong tâm thức thì biết có tư tưởng đang hiện ra trong tâm thức là đủ.
Thí dụ khi muốn làm một
việc (thiện) gì cho người khác thì chỉ lo làm cho hoàn tất, tạo niềm vui cho kẻ
khác là đủ thì tâm tự tại. Ngược lại, nếu cho rằng chính Ta làm việc đó thì
trong tâm sẽ đặt ra vô số điều kiện tức là tâm còn dính mắc. Nào là muốn người
trả ơn, nào là muốn người khác khen tặng, chụp hình, đăng báo thì phiền não tức
thì phát sinh, không còn tự tại. Đây là sự khác biệt giữa việc làm vô ngã vị
tha (vì người mà làm) và bản ngã tư lợi (mua bán, kinh doanh).
Nếu con người biết tư
duy quán chiếu và thực hành đúng những lời dạy của Đức Phật ở trên thì trong họ
cái tự Ngã dần dần bị tiêu diệt và những cảm tính về “Cái Tôi” và “Cái Của Tôi”
cũng không còn. Đây là con đường thoát khổ, giải thoát tự tại Niết bàn tức là:
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” rồi vậy.
Vì vậy nếu con người sống trong chánh niệm tĩnh thức, không chạy theo sự quyến rũ của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì những nguồn gốc phát sinh ra tham lam, ái dục, bám níu hay những cảm tính về “Cái Tôi” và “Cái Của Tôi” sẽ biến mất và đúng vào thời điểm đó không còn hình bóng của khổ đau và dĩ nhiên Niết bàn thanh tịnh sẽ hiện bày.
Đắc đạo rồi có còn đau khổ không?
Trở lại với kinh Na Tiên Tỳ Kheo:
Vua Di Lan Đà hỏi:
-- Bạch Ðại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau, nhưng trong đời nầy có còn thấy mình đau khổ nữa không?
-- Tâu Ðại vương, tùy từng việc một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc không.
-- Có việc có, có việc không, là như thế nào?
-- Ðau khổ của thân thì còn, đau khổ của tâm thì hết.
-- Vì sao vậy?
-- Sở dĩ thân còn đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ nầy là thân, hễ nhân duyên ấy còn tồn tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là lòng tham dục, một khi tâm ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham dục không còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.
-- Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà không khiến thân lìa được khổ đau, như thế là chưa chứng đắc Niết Bàn chăng? Ðắc đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm sao gọi là đắc đạo? Còn nán ở lại trần thế làm gì để còn chịu khổ đau?
-- Tâu Ðại vương, bậc đắc đạo không chuộng mà cũng không ghét, không tìm cầu mà cũng không xua đuổi. Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy, không hấp tấp, không vội vả. Ví như chuối non không cần phải vú ép. Lại cũng không cần chờ chuối chín để chực hái. Vì vậy nên đức Xá Lợi Phất xưa có dạy rằng:
Không cần tịch diệt,
Cũng không cần trường sanh.
Chưa phải lúc thì ở,
Thời đến thì ra đi.
Vua nói:
-- Hay thay! Hay thay!
Thế thì Niết Bàn và thế gian hay Phật và chúng sinh là một hay hai?
Phật và ta không hai, không khác, không thể tìm Phật ngoài tấm thân này được. Khi thức tĩnh giác ngộ là Phật nghĩa là sống trong thanh tịnh tự tại Niết Bàn, ngược lại sống trong mê mờ bất giác thì vĩnh viễn là chúng sinh thế thôi. Thế thì Thái tử Tất Đạt Đa với Đức Phật Thích Ca là một hay hai? Nếu là một (tương đồng) thì tại sao không ai bái lạy Thái tử mà chỉ bái lạy Đức Phật? Còn nếu là hai (dị biệt) thì không có Thái tử, lấy đâu ra có Đức Phật? Cũng như khúc gỗ và tượng Phật là một hay hai? Nếu là một (tương đồng) thì đâu có ai lạy khúc gỗ bao giờ? Còn nếu là hai (dị biệt) thì nếu không có khúc gỗ, làm sao đục thành tượng Phật được? Cũng như chính bạn vậy.
Bạn ngay nay và mấy chục
năm trước là một hay hai? Nếu là một (tương đồng) thì bạn ngày trước bãnh trai,
trẻ trung, hào hoa phong nhã còn bạn ngày nay lưng mõi, gối mòn, da nhăng má
hóp thì làm sao là một được? Còn nếu là hai (dị biệt) thì bạn muôn đời vẫn là
bạn mà, cũng ông A, bà B từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời chớ đâu phải người
nào khác. Đây chính là nguyên lý Bất Nhị nói lên cái biết, cái nghiệm chứng
bằng thực hành, bằng thiền định chớ không thể bằng luận giải hay bằng ngôn ngữ
của con người. Vậy biết cái gì? Cái biết rốt ráo ở đây chính là sự tương quan
giữa “Tướng” và “Tánh” hay cả hai không phải tương đồng và cũng không phải dị
biệt. Tuy tướng trạng của con người, của thế giới nhân sinh vũ trụ thay đổi dựa
theo thuyết “Duyên Khởi” nhưng thể Tánh của nó lúc nào cũng vẫn thế. Ví như
Tướng của nước là những làn sóng nhấp nhô trên biển, nhưng nước chính là thể
Tánh của sóng cho nên không có làn sóng nào ngoài nước mà có được. Nói cách
khác “Vô Ngã” là duyên sinh biểu thị ở mặt hiện tượng và duyên sinh là vô ngã
biểu thị ở mặt thể tánh.
Chân lý Vô Ngã, Vô
Thường và Duyên Khởi là xương sống của đạo Phật mà không có một tôn giáo nào
trên thế giới từ ngàn xưa đến ngày nay có thể so sánh được. Đây chính là điểm
đặc thù tại sao Phật giáo là trí tuệ, là con đường giải thoát mà không có tín
ngưỡng. Một khi con người đạt đến trình độ không còn phân biệt chủ thể và
đối tượng, không còn ý thức với vô thức, không còn có hữu hay vô, không còn
“sắc không” , “Tướng” “Tánh” đối đãi thì họ đạt đến trạng thái Chơn Không hay
Tánh Không tối thượng tức là Niết Bàn bởi vì đối với Phật giáo tất cả những ý
niệm chủ khách, sắc không, niết bàn sinh tử, thường đoạn, nhất nguyên nhị
nguyên…chỉ là những vọng chấp đối đãi trong khi Niết Bàn chính là trạng thái mà
trong đó mọi tư tưởng, mọi ý niệm về chấp Ngã (Cái Tôi) và Ngã Sở (Cái Của Tôi)
đều tịch diệt.
Sự vắng bóng “Cái Tôi” và “Cái Của Tôi” nghĩa là hành giả đã diệt xong Ngã chấp không có nghĩa là người đó không còn cảm biết những điều trên thế gian nầy nữa để hóa thành một pho tượng đá vô tri vô cảm mà hành giả thực sự phát triển một sự linh hoạt tột đỉnh. Tại sao? Bởi vì sự chấm dứt của dục lạc, của sự thèm muốn thường tình mà chính là cội nguồn phát sinh ra biết bao nỗi khổ cho con người về sau sẽ đưa hành giả đến một niềm hạnh phúc lớn nhất trong tất cả các niềm hạnh phúc mà nhà Phật gọi là thanh tịnh an lạc Niết Bàn. Thông thường, những lạc thú của con người chỉ là những hạnh phúc phù du, giả tạm, lừa phỉnh chẳng khác gì miếng mồi móc vào một lưỡi câu. Khi đã nuốt miếng mồi mà mình đang thèm muốn thì tức thì lưỡi câu kia cũng sẽ móc vào cổ họng vì thế không có hạnh phúc nào trên thế gian của con người bình thường mà không ngầm chứa những nỗi khổ niềm đau về sau. Ngược lại Niết Bàn, tạm gọi là hạnh phúc tối thượng, là sự an lạc thanh tịnh trong tâm hồn mà trong đó không còn hình bóng của tham, sân, si cho nên họ không còn tranh chấp, đố kỵ cho những ảo ảnh phù du, giả tạm của thế gian.
Những căn bản về bản ngã
tức là “Cái Tôi” đã phá thì những cảm tính về “Cái Của Tôi” cũng bị diệt
cho nên tâm hồn mới thật sự thanh tịnh, thanh thoát, nhẹ nhàng được. Có người
thắc mắc rằng nều không còn Cái Tôi nữa thì Tôi là ai? Con người thật sự chỉ là
sự kết tạo của Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) mà mỗi uẩn không có thật
thể do vậy toàn bộ ngũ uẩn không có tự thể cho nên nhà Phật gọi là Không. Cái
“có” mà chúng ta gọi là “ai” chỉ là cái có tạm bợ, là giả danh mà con
người đặt tên để gọi để có thể phân biệt người này với người kia trong xã hội
thế thôi, khi nhân duyên kết (sinh). Đến khi nhân duyên ly tán, ngũ uẩn bắt đầu
tan rã (hoại diệt) thì con người chết vì thế Tâm Kinh mới có câu: “Ngũ uẩn giai
không” là vậy. Nên nhớ nhân duyên sinh diệt trong ta từng sát na cho nên con
người luôn thay đổi từ tinh thần (tâm lý) cho tới tấm thân (sinh lý). Tư tưởng
sau thay thế tư tưởng trước, tế bào mới thay thế tế bào cũ cho nên trong ta
luôn biến chuyển vận hành. Thế thì cái gì là “Ta”? Cái mà con người gọi là “Ta”
chỉ là cái tên để gọi (giả danh) chớ không có cái gì thật sự là Cái Ta cả. Thí
dụ ngày xưa ở Việt Nam thì gọi là ông Hùng bây giờ sang định cư ở Mỹ thì đổi
sang thành ông John thế thì ông Hùng hay ông John thật sự tên nào là Ta?
Vậy thế nào là Niết Bàn?
Vậy thế nào là Niết Bàn?
Vào thời Đức Phật còn
tại thế có một ẩn sĩ Bà-la-môn khi gặp ngài Xá Lợi Phất liền hỏi :
- Niết bàn, Niết bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin cho biết đó là cái gì vậy?
Tôn giả Xá Lợi Phất bèn trả lời :
- Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết bàn.
- Niết bàn, Niết bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin cho biết đó là cái gì vậy?
Tôn giả Xá Lợi Phất bèn trả lời :
- Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết bàn.
Sau cùng, Phật giáo nhập
thế là phải từ cái thế gian đầy ô nhiễm này mà tự mình thanh lọc thân tâm, quán
biết đời là giả tạm, cố gắng buông bỏ mỗi ngày một chút thì hoa sen nơi chính
mình sẽ vươn lên và nở rộ. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn, sắp vọt ra khỏi
bùn, vươn lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang theo bên trong
mình một tiềm năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp, màu sắc rực rỡ và hương
thắm dịu dàng.
Lê Sỹ Minh Tùng