TỰ TÁNH
TAM BẢO - VIÊN NGỌC MINH CHÂU
TKN
Thích Nữ Chân Liễu
Các
vị Tổ khi xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng hơn,
các Ngài thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các pháp tu, để
khuyên dạy và giáo hóa chúng sanh. Người thế gian nếu chấp những hình tượng Bồ
Tát đều là linh tượng, thánh tượng theo thần quyền, có thể ban phước giáng họa,
cầu nguyện van xin, thì không lợi ích gì cho con đường tu tập bản thân. Chẳng
những vậy, điều cố chấp này còn làm cho con người yếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm
tâm ích kỷ, ham muốn lợi riêng cho bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con
người sống cuộc đời với tâm tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổ triền
miên.
Khi
vô thường đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng trước cửa tử,
lúc bấy giờ tâm con người bất an, đau đớn, hoảng loạn, kêu cứu, giờ phút đó
không biết rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục hay thiên đàng, Phật ở đâu,
Bồ Tát ở đâu, sao không thấy? Làm sao giữ được bình tĩnh để ra đi an lành trong
giờ phút đó? Câu hỏi này chúng ta cần phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ,
trong lúc thần thức còn sáng suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới
là sự cần thiết quan trọng bậc nhất.
Trong
các chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượng trang nghiêm được an trí bên cạnh Đức
Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, hình tướng một vị tăng xuất thế,
tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng viên ngọc minh châu tỏa sáng. Đó là
hình ảnh tôn tượng đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ, bổn tôn Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Ngài phát đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Tâm
nguyện Bồ Tát không muốn an hưởng Niết Bàn khi thấy chúng sanh còn quá nhiều
đau khổ.
Địa: sâu dầy, chắc cứng,
kiên cố, sâu kín, tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn
định, không đo lường.
Trong
đạo Phật, Địa Tạng hàm ý đại địa bao la, tượng trưng cho tạng thức và căn tánh
con người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, có chân thật, có giả dối.
Tâm con người có địa ngục và tâm con người cũng có niết bàn.
HÌNH TƯỚNG TRANG
NGHIÊM VỊ TĂNG XUẤT THẾ
(TỰ TÁNH TĂNG
BẢO - THANH TỊNH)
Tinh thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởng vị tha của một vị hình tướng xuất
gia, luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh đang chịu khổ cảnh địa ngục kinh hoàng bởi
vô minh. Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ ái, lòng đại từ đại bi
cao cả, là tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh, tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một
trong ba ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng bảo là người tu xuất gia, là kho chứa châu
báu diệu pháp, mồi ngọn đuốc từ bi trí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho
chúng sinh, mở sáng trí tuệ cho người tu học Phật.
Mặc dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được
người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường vượt qua rừng u minh tăm tối. Tâm từ
bi độ lượng bao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh phúc an vui cho cuộc đời. Những lời thuyết pháp của
Tăng bảo có sức mãnh liệt phá tan những vọng tâm, vọng tưởng sâu kín tận trong
tâm thức của những người đang mê ngủ với thú vui tạm bợ, làm cho họ thức tỉnh.
Thân đắp cà sa có ý nghĩa kham nhẫn, sống đời phạm hạnh thanh tịnh
và còn là sức mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. Chiếc áo
cà sa che chở cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham vọng, sân hận và si
mê. Người xuất thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát triển các thiện pháp, tự giải
thoát cho bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát vì người, không phải chuyện dễ dàng ai
cũng làm được.
Trong 37 phẩm trợ đạo dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ
Căn (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực” gồm có:
1. Tín Lực: Sức mạnh của sự tin tưởng vào chánh pháp không thối chuyển.
2. Tấn Lực: Sức mạnh của sự tinh tấn, quyết tâm thành tựu phạm hạnh trên đường tu.
3-Niệm lực: Sức mạnh của tâm niệm, luôn ghi nhớ xa rời điều ác, giữ giới trong sạch.
4. Định Lực: Sức mạnh của sự quán sát tâm và tập trung vào thiền định, an nhiên tự tại.
5. Tuệ Lực: Sức mạnh của sự sáng suốt, trí tuệ mạnh mẽ đi đến bờ giác ngộ.
Tu là ở nơi nội tâm có chánh tín sáng suốt và tư duy thanh tịnh,
không phải ở hình tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng tâm xuất
gia đều có thể thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyện Bồ Tát như người
xuất gia đắp y giải thoát vậy.
Tu
là noi theo hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địa con người có
nghiệp lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có niết bàn và có tự tâm
tự tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự tu, tự giác ngộ giải thoát cho
chính bản thân và mọi người hữu duyên, như hạnh nguyện của người xuất gia đắp y
giải thoát vậy.
Người
biết cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổi tâm địa của chính bản
thân, đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi nữa, tức là địa ngục
đã trống không, lúc đó được giải thoát. Đó
chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh,
mà ai ai cũng có.
TÍCH TRƯỢNG
PHÁ CỬA ĐỊA NGỤC: CHÁNH PHÁP
(TỰ TÁNH PHÁP
BẢO - CHÂN CHÁNH)
Địa
ngục không nhất thiết khi con người chết
đi mới thấy, địa ngục ở ngay cõi đời ngũ trược ác thế. Địa ngục sanh ly tử biệt,
địa ngục tù giam cấm cố tra tấn, địa ngục bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là
quá nhiều địa ngục ngay trước mắt, con người phải chịu đền trả quả báo gây tạo
ra nhiều đời nhiều kiếp trong lục đạo luân hồi.
Bồ
Tát Địa Tạng tay cầm Tích Trượng biểu dương sức mạnh của Chánh Pháp. Năng lực của Tích
Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ Tát, dùng chánh pháp chuyển
hóa tâm địa con người đầy tham lam, hận thù, đố kỵ, si mê mù quáng có thể thức
tỉnh kịp thời. Như những cánh hoa sen nở thơm tho thanh khiết, kết tụ của sự
giác ngộ giải thoát, hoa sen đều từ gốc bùn tanh. Mục đích của người tu là phải
có chánh pháp, hiểu tận tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời Phật dạy. Chánh
pháp chính là hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng đập
tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngục phiền não đau khổ.
Xuất
gia hay tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”, trang nghiêm
thân tướng với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, để
đạt tự tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát sanh trí tuệ, phá vỡ cửa địa ngục
vô minh nhiều kiếp luân hồi, tâm luôn hướng về Bồ Tát hạnh để cứu khổ chúng
sinh. Người tu theo con đường chân chính của Đức Phật chỉ dạy, sống trong chánh
pháp được an lạc hạnh phúc. Dù chưa thành Phật, chưa an hưởng niết bàn, nhưng ở
mọi cảnh giới đều có thể tự độ và độ tha như hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng. Còn sống
trên đời, còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào việc tu học, tự
quán sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì Phật dạy thân người khó được
và được thân người là dễ tu nhất.
Trên
đường tu học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gai thử thách. Nào
trùng độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tiền của, sắc
đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng rong chơi, ai nói gì cũng tin, ai
bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ tà pháp đó dẫn dắt con người lạc vào con
đường tà đạo đầy bóng tối tội lỗi. Chánh pháp là cứu cánh tận diệt tội lỗi, dứt
trừ thói quen tạo nghiệp đua đòi và nhiều tật xấu tiềm ẩn trong kho tàng tâm thức
con người. Khi hiểu tận tường giáo pháp trong kinh điển, thực hành và suy ngẫm
thấu đáo lời Phật dạy, chuyển hóa tâm địa si mê sâu nặng trong tàng thức và tâm
ích kỷ mù quáng, con người thức tỉnh kịp thời, đó là giải thoát.
Đức
Phật dạy: "Phải luôn luôn quán chiếu nội tâm, thúc liễm vọng tâm vọng thức
để tự giác ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi nghiệp lực. Tâm là địa ngục, tâm
cũng là niết bàn. Con người phải hứng chịu mọi quả báo an lạc hay đau khổ do
chính mình tạo ra. Chính tự thân mới có đủ năng lực đưa mình ra khỏi địa ngục
đau khổ mà thôi".
Địa
Tạng là tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh biết tàm quí,
sám hối tội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổi tâm niệm xấu ác thành
thiện lành chính là con đường giải thoát ra khỏi luân hồi, tam đồ ác đạo: địa
ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý như vậy thì rất có lợi lạc cho việc
tu nhân, tích phước, kiệm đức, cứu người giúp đời. Người đời có thể che giấu được
tâm tốt hay xấu với người xung quanh, nhưng không gạt được tâm địa của chính
mình. Nhận
ra được chân lý sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương tiện thanh lọc
những tư tưởng ô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều kiếp. Thực hành lời Phật
dạy, suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự thân, vững bước tu tập cho đến khi
đạt được Tự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh,
thân tâm được tự tại giải thoát khỏi cảnh giới địa ngục.
VIÊN NGỌC
MINH CHÂU - TRÍ TUỆ
(TỰ TÁNH PHẬT
BẢO - SÁNG SUỐT)
Bồ Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật
thể vô cùng quí giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong bóng tối
vô minh. Hình tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những tia hào quang, chiếu
sáng xung quanh đầu
hay toàn thân, chính là nghĩa đó. Theo kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự
sáng suốt thanh tịnh của những bậc giác ngộ siêu phàm, các vị chứng chánh đẳng
chánh giác mới có được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo được người đời
tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường, cứu giúp con người vượt qua rừng u minh tăm tối.
Con người nhờ được chỉ dẫn, cố gắng tìm
cho ra viên ngọc Minh Châu tượng trưng cho trí tuệ sáng ngời của tự tâm.
Viên ngọc Minh Châu tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt bất sanh bất
diệt của con người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâm tự lực con người
thanh tịnh mà được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện. Viên ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thức giác ngộ của Phật tánh
có công năng chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên tất cả
sự thấy biết của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi luân hồi nhiều
đời nhiều kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá của tự thân, cứ lo mãi tìm
Phật, cầu Bồ Tát bên ngoài.
Người có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thần tự giác, sống
không chọn ăn ngon mặc sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, hiểu
rõ vô thường, thân này trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những đòi hỏi của
con người biết tùy theo khả năng và chỉ là phương tiện cần thiết, biết đủ cho
cuộc sống, thì đạt được sự tự do và giải thoát khỏi sự trói buộc ngục tù của
lòng tham sân si.
“Phật Bảo” là một trong ba ngôi báu của Tự Tánh Tam Bảo sáng suốt
nhất, là kho chứa đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh thần của đạo Phật
không chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượng linh thiêng huyền bí hay cầu
nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ. Người tu theo Phật phải có ý chí cương quyết
phá tan mọi cám dỗ của danh lợi, không bị sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp) trói buộc, tìm cho được tự tánh “Phật Bảo” sáng suốt của tự tâm. Tâm mê
là chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn.
Trong Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự Tâm Tự Tánh Tam Bảo
sẵn có nơi tự thân mỗi người:
Bất ưng trụ sắc sanh tâm
Bất
ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,
Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nghĩa là: Con người không chấp giữ bất cứ việc gì cho riêng mình,
đừng thấy sắc sanh phân biệt thương ghét, đừng vì cao lương mỹ vị mất cảnh
giác, đừng vì lợi dưỡng sung sướng sanh tâm tham đắm. Không có chỗ dính mắc thì
không có địa ngục khổ đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an lành giải thoát. Tâm
“vô sở trụ” là tâm bồ đề, là ngọc Minh Châu sáng ngời trí tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở
cảnh giới nào cũng được an vui tự tại.
Tóm lại, Bồ Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng (từ bi), một
tay nắm chắc viên ngọc (trí tuệ), không phải là vị thần linh, và không có khả
năng phá cửa địa ngục cứu chúng sanh theo nghĩa đen, bởi vì như vậy trái với
luật nhân quả và hiểu như vậy kinh Bát Nhã gọi là vọng
tưởng điên đảo. Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng chánh tín đủ hai yếu tố Từ Bi và Trí Tuệ. Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có
chánh tín, con người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của,
tài sản có thể mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín không
quan tâm đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp, chứ
không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó, con người
sẽ rơi vào trầm luân đau khổ của sanh tử không thoát ra được.
Người sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt
ráo thanh lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì minh
tâm kiến tánh càng sớm đạt thành. Thấy được Phật Pháp Tăng tự tâm tức là hằng sống
trong “Tự Tánh Tam Bảo”.
TỰ TÁNH
PHẬT BẢO:
Viên ngọc
Minh Châu quí hiếm, là trí tuệ viên mãn, là Phật tánh sáng suốt, có công năng phá
trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.
TỰ TÁNH
PHÁP BẢO:
Tích trượng
Chánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnh từ bi chân chánh vô úy của các pháp, có
công năng tự giải thoát khỏi địa ngục đau khổ của thân tâm.
TỰ TÁNH
TĂNG BẢO:
Tướng xuất
gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm xuất gia, hành Bồ Tát đạo,
tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật học, một lòng không thối chuyển.
Khi mê mờ: Chúng con
khổ - nguyện xin cứu khổ.
Khi giác ngộ: Chúng
con khổ - nguyện xin tự độ. []
NAM MÔ U
MINH GIÁO CHỦ BỔN TÔN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.
TKN Thích Nữ
Chân Liễu
thichnuchanlieu@gmail.com
Bà Lão Cúng
Đèn Thời Đức Phật
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Ý Nghĩa Chuyện Bà Lão
Cúng Đèn Thời Đức Phật
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên. Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri. Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện. Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên. Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri. Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện. Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Suy Ngẫm: Có hai loại ngọn đèn:
1. Ngọn đèn trí tuệ: tượng trưng "Phật tâm Phật
tánh" sáng suốt của mỗi con người ai cũng có sẵn, bình đẳng, không có
biệt trừ. Chỉ có phàm phu mới có tâm phân biệt giai cấp, sang hèn, hơn
thua, so đo, nên sanh phiền não. Ý nghĩa cúng đèn với bản tâm thanh tịnh, mồi
ánh sáng trí tuệ từ ngọn đuốc Phật Pháp. Ngoài ra, không cầu xin gì riêng cho
cái tôi (bản ngã), không đòi hỏi Chư Phật phải ban cho mình gì cả và cũng không
tính toán hơn thua danh lợi. Đó mới là tấm lòng cúng dường Phật Pháp trong sáng
thanh tịnh, vì người không vì riêng cá nhân mình, gia đình mình (gọi là cúng
dường ba la mật), cho nên tương ưng với tâm của Chư Phật và Chư Bồ tát. Ngọn
đèn công đức, đầy đủ từ bi trí tuệ đó cháy mãi với thời gian.
2. Ngọn đèn thế tục: tượng trưng sự giàu có phô trương, mặc
dù nhiều dầu, sang trọng, mắc tiền, nhưng có lúc cũng phải cạn và lịm tắt dần.
Ví như của cải sang giàu, phước báu, nhưng khi hưởng hết, hoặc cuối cuộc đời
rồi cũng phải buông xuôi, mất đi tất cả theo luật vô thường. Con người thế gian
khi cúng đèn với tâm cầu xin hưởng phước, đòi hỏi nhiều việc từ nơi Chư Phật,
Chư Bồ tát, cầu mong được giàu sang an nhàn (cúng dường cầu danh lợi) cho riêng
bản thân, thì chỉ được phước hữu lậu trong thời gian ngắn ngủi. Đèn thế tục còn
lắm phiền não, tham lam và ích kỷ thì không thể cháy sáng lâu dài được. Đó là
những phước báo rất ít ỏi khiến cho con người trôi lăn mãi trong luân hồi lục
đạo.
Người tu học đạo phải
trải lòng cao thượng rộng lớn, Từ Bi Hỷ Xả, trong khi cúng dường hoa, trái,
nhang, đèn, nên phát tâm cầu giác ngộ Chánh Pháp hiện đời cho mình và cho tất
cả chúng sanh, đều thành Phật đạo. Tu tâm sửa tánh, không khinh người, giúp đời
hành thiện, tha thứ bao dung. Đó là hạnh nguyện đúng chánh pháp của người phát
tâm tu theo Phật, hành Bồ Tát đạo.
VP.PHTQ.CANADA trân trọng thông báo:
Tập san PHTQ.26 (VU LAN) đã phát hành hoàn toàn miễn phí vào dịp
Đại Lễ Vu Lan (10/8/2014).
VP.PHTQ.CANADA
bắt đầu nhận bài vở ý kiến tịnh tài đóng góp cho Tập san PHTQ.27
(Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015)
bắt đầu nhận bài vở ý kiến tịnh tài đóng góp cho Tập san PHTQ.27
(Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015)
Quí vị muốn thỉnh tập san PHTQ.26 & 27 hay phát tâm hùn phước ấn tống kinh sách tu học
hoan hỷ gửi thư & tịnh tài về địa chỉ:
hoan hỷ gửi thư & tịnh tài về địa chỉ:
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
108-123 Railroad St., Brampton, ON, L6X-1G9, CANADA.
THƯ
NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 26
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2014/08/thu-ngo-va-muc-luc-phtq-so-26.html
http://phtq-canada.blogspot.com
KÍNH MỜI THAM KHẢO BÀI VIẾT THEO CÁC LINKS:
XUẤT
GIA HAY TẠI GIA
HÌNH THỨC CÚNG KIẾN TRONG PHẬT GIÁO
HẠNH PHÚC Ở ĐÂU?
THẾ NÀO ĐƯỢC GỌI LÀ TU
CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP TRONG PHẬT GIÁO
VÔ MINH DẪN CHÚNG SANH VÀO SANH TỬ LUÂN HỒI