TKN Thích Nữ Chân Liễu
Các vị Tổ khi xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng hơn,
các Ngài thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các pháp tu,
để khuyên dạy và giáo hóa chúng sanh. Người thế gian nếu chấp những
hình tượng Bồ Tát đều là linh tượng, thánh tượng theo thần quyền, có thể
ban phước giáng họa, cầu nguyện van xin, thì không lợi ích gì cho con
đường tu tập bản thân. Chẳng những vậy, điều cố chấp này còn làm cho con
người yếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm tâm ích kỷ, ham muốn lợi riêng cho
bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con người sống cuộc đời với tâm
tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổ triền miên.
Khi
vô thường đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng trước
cửa tử, lúc bấy giờ tâm con người bất an, đau đớn, hoảng loạn, kêu cứu,
giờ phút đó không biết rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục hay
thiên đàng, Phật ở đâu, Bồ Tát ở đâu, sao không thấy?
Làm sao giữ được bình tĩnh để ra đi an lành trong giờ phút đó? Câu hỏi
này chúng ta cần phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ, trong lúc thần
thức còn sáng suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới là sự
cần thiết quan trọng bậc nhất.
Trong
các chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượng trang nghiêm được an trí
bên cạnh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, hình tướng
một vị tăng xuất thế, tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng viên ngọc
minh châu tỏa sáng. Đó là hình ảnh tôn tượng đại bi, đại nguyện, đại
thánh, đại từ, bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài phát đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Tâm nguyện Bồ Tát không muốn an hưởng Niết Bàn khi thấy chúng sanh còn quá nhiều đau khổ.
Địa: sâu dầy, chắc cứng, kiên cố, sâu kín, tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn định, không đo lường.
Trong
đạo Phật, Địa Tạng hàm ý đại địa bao la, tượng trưng cho tạng thức và
căn tánh con người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, có chân
thật, có giả dối. Tâm con người có địa ngục và tâm con người cũng có
niết bàn.
HÌNH TƯỚNG TRANG NGHIÊM VỊ TĂNG XUẤT THẾ
(TỰ TÁNH TĂNG BẢO - THANH TỊNH)
Tinh thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởng vị tha của một vị hình tướng xuất gia, luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh đang chịu khổ cảnh địa ngục kinh hoàng bởi vô minh. Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ ái, lòng đại từ đại bi cao cả, là tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh, tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một trong ba ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng bảo là người tu xuất gia, là kho chứa châu báu diệu pháp, mồi ngọn đuốc từ bi trí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho chúng sinh, mở sáng trí tuệ cho người tu học Phật.
Mặc
dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được người
đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường vượt qua rừng u minh tăm tối. Tâm
từ bi độ lượng bao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh phúc an vui
cho cuộc đời. Những lời thuyết pháp của Tăng bảo có sức mãnh liệt phá
tan những vọng tâm, vọng tưởng sâu kín tận trong tâm thức của những
người đang mê ngủ với thú vui tạm bợ, làm cho họ thức tỉnh.
Thân
đắp cà sa có ý nghĩa kham nhẫn, sống đời phạm hạnh thanh tịnh và còn là
sức mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. Chiếc áo
cà sa che chở cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham vọng, sân hận
và si mê. Người xuất thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát triển các
thiện pháp, tự giải thoát cho bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát vì người,
không phải chuyện dễ dàng ai cũng làm được. Trong 37 phẩm trợ đạo dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ Căn (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực” gồm có:
1. Tín Lực: Sức mạnh của sự tin tưởng vào chánh pháp không thối chuyển.
2. Tấn Lực: Sức mạnh của sự tinh tấn, quyết tâm thành tựu phạm hạnh trên đường tu.
3. Niệm Lực: Sức mạnh của tâm niệm, luôn ghi nhớ xa rời điều ác, giữ giới trong sạch.
4. Định Lực: Sức mạnh của sự quán sát tâm và tập trung vào thiền định, an nhiên tự tại.
5. Tuệ Lực: Sức mạnh của sự sáng suốt, trí tuệ mạnh mẽ đi đến bờ giác ngộ.
Tu
là ở nơi nội tâm có chánh tín sáng suốt và tư duy thanh tịnh, không
phải ở hình tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng tâm
xuất gia đều có thể thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyện Bồ Tát như người xuất gia đắp y giải thoát vậy.
Tu
là noi theo hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địa con
người có nghiệp lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có niết
bàn và có tự tâm tự tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự
tu, tự giác ngộ giải thoát cho chính bản thân và mọi người hữu duyên,
như hạnh nguyện của người xuất gia đắp y giải thoát vậy. Người
biết cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổi tâm địa của chính
bản thân, đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi nữa, tức
là địa ngục đã trống không, lúc đó được giải thoát. Đó chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh, mà ai ai cũng có.
(TỰ TÁNH PHÁP BẢO - CHÂN CHÁNH)
Địa ngục không nhất thiết khi con người chết đi mới thấy, địa ngục ở ngay cõi đời ngũ trược ác thế. Địa ngục sanh ly tử biệt, địa ngục tù giam cấm cố tra tấn, địa ngục bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là quá nhiều địa ngục ngay trước mắt, con người phải chịu đền trả quả báo gây tạo ra nhiều đời nhiều kiếp trong lục đạo luân hồi.
Bồ Tát Địa Tạng tay cầm Tích Trượng biểu dương sức mạnh của Chánh Pháp.
Năng lực của Tích Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ
Tát, dùng chánh pháp chuyển hóa tâm địa con người đầy tham lam, hận thù,
đố kỵ, si mê mù quáng có thể thức tỉnh kịp thời. Như những cánh hoa sen
nở thơm tho thanh khiết, kết tụ của sự giác ngộ giải thoát, hoa sen đều
từ gốc bùn tanh. Mục đích của người tu là phải có chánh pháp, hiểu tận
tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời Phật dạy. Chánh pháp chính là
hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng đập tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngục phiền não đau khổ.
Xuất gia hay tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”,
trang nghiêm thân tướng với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn,
thiền định và trí tuệ, để đạt tự tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát
sanh trí tuệ, phá vỡ cửa địa ngục vô minh nhiều kiếp luân hồi, tâm luôn
hướng về Bồ Tát hạnh để cứu khổ chúng sinh. Người tu theo con đường chân
chính của Đức Phật chỉ dạy, sống trong chánh pháp được an lạc hạnh
phúc. Dù chưa thành Phật, chưa an hưởng niết bàn, nhưng ở mọi cảnh giới đều có thể tự độ và độ tha như hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng.
Còn sống trên đời, còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào
việc tu học, tự quán sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì Phật
dạy thân người khó được và được thân người là dễ tu nhất.
Trên đường tu học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gai thử thách. Nào trùng độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tiền
của, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng rong chơi, ai nói
gì cũng tin, ai bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ tà pháp đó dẫn dắt
con người lạc vào con đường tà đạo đầy bóng tối tội lỗi. Chánh pháp là
cứu cánh tận diệt tội lỗi, dứt trừ thói quen tạo nghiệp đua đòi và nhiều
tật xấu tiềm ẩn trong kho tàng tâm thức con người. Khi hiểu tận tường
giáo pháp trong kinh điển, thực hành và suy ngẫm thấu đáo lời Phật dạy,
chuyển hóa tâm địa si mê sâu nặng trong tàng thức và tâm ích kỷ mù
quáng, con người thức tỉnh kịp thời, đó là giải thoát.
Đức
Phật dạy: "Phải luôn luôn quán chiếu nội tâm, thúc liễm vọng tâm vọng
thức để tự giác ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi nghiệp lực. Tâm là
địa ngục, tâm cũng là niết bàn. Con người phải hứng chịu mọi quả báo an
lạc hay đau khổ do chính mình tạo ra. Chính tự thân mới có đủ năng lực
đưa mình ra khỏi địa ngục đau khổ mà thôi".
Địa
Tạng là tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh biết tàm
quí, sám hối tội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổi tâm niệm
xấu ác thành thiện lành chính là con đường giải thoát ra khỏi luân hồi,
tam đồ ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý như vậy thì
rất có lợi lạc cho việc tu nhân, tích phước, kiệm đức, cứu người giúp
đời. Người đời có thể che giấu được tâm tốt hay xấu với người xung
quanh, nhưng không gạt được tâm địa của chính mình. Nhận ra được chân lý
sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương tiện thanh lọc những tư
tưởng ô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều kiếp. Thực hành lời Phật
dạy, suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự thân, vững bước tu tập cho
đến khi đạt được Tự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh, thân tâm được tự tại giải thoát khỏi cảnh giới địa ngục.
VIÊN NGỌC MINH CHÂU - TRÍ TUỆ
(TỰ TÁNH PHẬT BẢO - SÁNG SUỐT)
Bồ Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật thể vô cùng quí giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong bóng tối vô minh. Hình tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những tia hào quang, chiếu sáng xung quanh đầu hay toàn thân, chính là nghĩa đó.
Theo
kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự sáng suốt
thanh tịnh của những bậc giác ngộ siêu phàm, các vị chứng chánh đẳng
chánh giác mới có được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo được
người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường, cứu giúp con người vượt qua
rừng u minh tăm tối. Con người nhờ được chỉ dẫn, cố gắng tìm cho ra
viên ngọc Minh Châu tượng trưng cho trí tuệ sáng ngời của tự tâm.
Viên ngọc Minh Châu tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt bất sanh bất diệt
của con người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâm tự lực con
người thanh tịnh mà được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện. Viên
ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thức giác ngộ của Phật tánh có công
năng chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên tất cả
sự thấy biết của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi
luân hồi nhiều đời nhiều kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá của
tự thân, cứ lo mãi tìm Phật, cầu Bồ Tát bên ngoài.
Người
có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thần tự giác, sống không chọn ăn
ngon mặc sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, hiểu rõ vô
thường, thân này trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những đòi hỏi của
con người biết tùy theo khả năng và chỉ là phương tiện cần thiết, biết
đủ cho cuộc sống, thì đạt được sự tự do và giải thoát khỏi sự trói buộc
ngục tù của lòng tham sân si.
“Phật Bảo” là
một trong ba ngôi báu của Tự Tánh Tam Bảo sáng suốt nhất, là kho chứa
đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh thần của đạo Phật không
chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượng linh thiêng huyền bí hay
cầu nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ. Người tu theo Phật phải có ý chí
cương quyết phá tan mọi cám dỗ của danh lợi, không bị sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trói buộc, tìm cho được tự tánh “Phật Bảo” sáng suốt của tự tâm. Tâm mê là chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn. Trong Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự Tâm Tự Tánh Tam Bảo sẵn có nơi tự thân mỗi người:
Bất ưng trụ sắc sanh tâm
Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nghĩa
là: Con người không chấp giữ bất cứ việc gì cho riêng mình, đừng thấy
sắc sanh phân biệt thương ghét, đừng vì cao lương mỹ vị mất cảnh giác,
đừng vì lợi dưỡng sung sướng sanh tâm tham đắm. Không có chỗ dính mắc
thì không có địa ngục khổ đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an lành giải
thoát. Tâm “vô sở trụ” là tâm bồ đề, là ngọc Minh Châu sáng ngời trí
tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở cảnh giới nào cũng được an vui tự tại.
Tóm lại, Bồ
Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng (từ bi), một tay nắm chắc
viên ngọc (trí tuệ), không phải là vị thần linh, và không có khả năng
phá cửa địa ngục cứu chúng sanh theo nghĩa đen, bởi
vì như vậy trái với luật nhân quả và hiểu như vậy kinh Bát Nhã gọi là
vọng tưởng điên đảo. Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng chánh tín đủ hai yếu tố Từ Bi và Trí Tuệ.
Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của, tài sản có thể mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín không quan tâm đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp, chứ không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó, con người sẽ rơi vào trầm luân đau khổ của sanh tử không thoát ra được. Người sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo thanh lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì minh tâm kiến tánh càng sớm đạt thành. Thấy được "Phật Pháp Tăng" tự tâm tức là hằng sống trong “Tự Tánh Tam Bảo”.
Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của, tài sản có thể mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín không quan tâm đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp, chứ không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó, con người sẽ rơi vào trầm luân đau khổ của sanh tử không thoát ra được. Người sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo thanh lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì minh tâm kiến tánh càng sớm đạt thành. Thấy được "Phật Pháp Tăng" tự tâm tức là hằng sống trong “Tự Tánh Tam Bảo”.
TỰ TÁNH PHẬT BẢO:
Viên
ngọc Minh Châu quí hiếm, là trí tuệ viên mãn, là Phật tánh sáng suốt,
có công năng phá trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.
TỰ TÁNH PHÁP BẢO:
Tích
trượng Chánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnh từ bi chân chánh vô úy của
các pháp, có công năng tự giải thoát khỏi địa ngục đau khổ của thân
tâm.
TỰ TÁNH TĂNG BẢO:
Tướng
xuất gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm xuất gia,
hành Bồ Tát đạo, tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật học, một
lòng không thối chuyển.
Khi mê mờ: Chúng con khổ - nguyện xin cứu khổ.
Khi giác ngộ: Chúng con khổ - nguyện xin tự độ. []
NAM MÔ U MINH GIÁO CHỦ BỔN TÔN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.
thichnuchanlieu@gmail.com
AI CŨNG PHẢI CHẾT
Hòa thượng K. S. Dhammananda
Chúng ta
hãy nghiên cứu Đức Phật giải quyết vấn đề cho hai người, vì luyến ái mà cái
chết làm cho đau khổ. Một người là Bà Kisagatomi. Đứa con trai duy nhất của bà
ta bị rắn cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Đức Phật. Đức Phật
bảo Bà hãy đem đến cho Đức Phật một vài hạt giống cải (mù tạc) của một gia đình
không có ai chết, Đức Phật sẽ chữa cho.
Nhưng Bà ta không thể tìm thấy một gia
đình nào mà không có người chết. Tất cả các gia đình mà Bà đã đến thì không nhà
nào là không khóc than hay đã khóc than về cái chết của người thân vào một lúc
nào đó. Bà đã hiểu sự thực đắng cay: cái chết rất phổ biến. Cái chết giáng
xuống tất cả mọi người và không chừa ai cả. Buồn đau là di sản đối với mọi
người.
Một người
khác được Đức Phật dạy là Patacara. Trường hợp của Bà này buồn thảm hơn. Chỉ
trong một thời gian ngắn, Bà mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất cả
của cải. Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên như dại trên đường
phố cho đến khi gặp Đức Phật. Đức Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách
giảng giải cho Bà nghe là cái chết là một hiện tượng tự nhiên của tất cả mọi
người.
“Con đã
đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần này thôi, Patacara; con đã
đau khổ nhiều lần trong những tiền kiếp của con. Đã lâu, con đau khổ vì cái
chết của cha, mẹ, con cái và những người thân của con. Khi con đau khổ như vậy,
nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển cả”.
Cuối
cùng, Patacara nhận thức được cái vô thường của cuộc đời. Patacara và Kisagotami
hiểu rõ cái khổ và cả hai đều cảm nhận được sự đau khổ của cái chết . Bằng cách
hiểu sâu xa Đế Thứ Nhất của Tứ Diệu Đế về “khổ” thì ba Đế còn lại cũng hiểu
được.
Ngài nói: “Này các tỳ kheo, đây là khổ, nguyên nhân của khổ, đây là diệt
khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt không?”.
NHƯ ÁNG MÂY TRÔI
Bùi Đình Ngọc
Trả Phật tám kiếp luân hồi
Ngàn sau đời biết nghiệp tôi là gì?
Kiếp này quá đủ sân si
Thì thêm nhiều kiếp làm gì nữa đây ?
Trả em tình ái bủa vây
Ðắm say nhung nhớ cũng đầy phù vân
Môi kề môi đã bao lần
Mà sao tình ý như gần như xa !
Trả cho nhân thế điêu ngoa
Khùng điên, ác độc, mù loà, nhiễu nhương
Trả chùa nghi ngút khói hương
Trả chung bá tánh vấn vương thất tình
Trả trời rực rỡ bình minh
Trả đất địa chấn thình lình nứt ra
Mưa giông sấm sét phong ba
Sóng thần đất lở tan hoang đắm thuyền
Trả mùa Hè tiếng Ðỗ quyên
Trả Thu man mác nắng hiền gió mơn
Trả Xuân tươi thắm bao lần
Trả Ðông lạnh lẽo âm thầm tối tăm
Trả cha, trả mẹ võng nằm
Trả cho chú Cuội trăng rằm đầu non
Trả trăm năm đá cũng mòn
Trả hương cho gió, hương còn thoảng đây
Trả trăng, trả gió cho mây
Trả Thơ cho bút -
Trả cây cho rừng
Chỉ còn giữ cái Vô thường !
Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người
khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình,
thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây, ngay trên thế gian này!
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo
gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an
tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên
đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là
các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta. Cũng ví như biển động hay
biển lặng, tuy khác nhau, nhưng đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.
Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng
cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào,
không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh
diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
CƯ SĨ CHÍNHTRỰC
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
ĐI
CHÙA BƯỚC ĐẦU HÀNH TRÌNH TÂM LINH
ĐI
CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
MƯỜI
NGHIỆP LÀNH
CHỮ
DUYÊN TRONG ĐẠO PHẬT
SỐNG
TỬ TẾ VỚI NHAU
NGUỒN
GỐC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
GIẢI
THOÁT TRONG PHẬT GIÁO
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2014/04/giai-thoat-trong-phat-giao.html