PHẬT TÁNH BÌNH ĐẲNG
TKN. Thích Nữ Chân Liễu
Pháp vũ đồng lưu, lưu bất đoạn
Phật đăng phổ chiếu, chiếu vô cùng
Mưa pháp tràn lan, lan chẳng dứt
Ðèn từ rạng chiếu, chiếu không cùng.
(Tổ Khánh Hòa)
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, Phật Giáo đồ khắp năm châu đã đón nhận ánh sáng khai ngộ của Ðức Phật bằng sự chân thành cung kính và tri ơn vô cùng vô tận. Khi còn là Thái tử Tất Ðạt Ða, nhận thấy cảnh sanh lão bịnh tử, đem đến sự thống khổ cho nhân loại, Ngài quyết tâm ra đi tìm đạo giác ngộ giải thoát cho chúng sinh. Trải qua nhiều chặng đường cầu đạo gian lao, với sáu năm kiên trì khổ hạnh, Ðức Phật đoạn trừ được hết tham ái, lậu hoặc và vô minh, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, trở thành Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi đắc đạo, Ðức Thế Tôn nhắn gởi nhân loại thông điệp:
“Tất cả chúng sanh đều bình đẳng trong Phật tánh, không phân biệt giai cấp quí tộc hay hạ tiện. Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật”.
Nghĩa là không có giai cấp phân biệt trong Phật tánh, khi mê lầm là chúng sanh, khi giác ngộ sẽ thành Phật. Ai cũng có Phật tánh giống nhau và có thể tu hành để thoát vòng luân hồi sanh tử. Ðó chính là “Sự Bình Đẳng Trong đạo Phật” chân thật tuyệt đối.
Sự Bình Ðẳng Trong Nhân Gian:
Xưa kia, xã hội sống dưới sự thống trị của giai cấp giàu có và đầy quyền lực. Do đó, tạo ra nhiều bất công và bất bình đẳng về vật chất, quyền lợi và địa vị. Nhân gian thống khổ lầm than, đấu tranh, hận thù, chết chóc luôn xảy ra. Vì phải chịu đựng sự áp bức bất công, đau khổ, nghèo đói, và ly tán, người dân thường hay cầu khẩn, van xin, để được nhiều điều ước muốn bình an như ý. Họ tìm tới những thuật sĩ và đạo sĩ, chuyên dụ dẫn mê hoặc tín đồ nhẹ dạ, nhắm mắt tin tưởng những vị thần thánh huyền thoại tưởng tượng, đầy vạn năng, có thể ban phước giáng họa theo lời cầu khẩn van xin.
Dựa vào những ảo tưởng mơ hồ đó, thường không được như ý, con người chìm đắm trong đau khổ và thù hận, chiến tranh bùng nổ khắp nơi. Ngày nay, luật pháp do con người đặt ra, tôn trọng nhân quyền trong xã hội tuy có tiến bộ, bình đẳng được cải thiện trong một số lãnh vực cần thiết về đời sống, đạo đức được đánh giá cao, nhưng đó chỉ là bình đẳng tương đối trong thế gian mà thôi.
Trong đời sống gia đình, giữa vợ chồng, con cái, sự bình đẳng được đặt vào vị trí cho từng thành viên. Ðạo đức giữa vợ chồng là phải có sự tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Cha mẹ phải có trách nhiệm về sự trưởng thành của các con. Phận làm con cũng phải vẹn tròn hiếu đạo đối với cha mẹ.
Như vậy ngay trong gia đình, sự bình đẳng tương đối đem lại an lành và hạnh phúc. Ðạo đức xã hội được cải thiện, đời sống bớt đi tranh chấp, phân biệt đối xử, phải trái, hơn thua, được mất, giấc ngủ mọi người tương đối được bình yên.
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua đều xả bỏ
Giấc ngủ được bình yên.
Bình Ðẳng Tánh Trong Nhân Quả:
Chân lý nhân quả chi phối việc thiện ác từ quá khứ, hiện tại và vị lai, trong nhiều đời nhiều kiếp. Những hành vi thiện ác đều bình đẳng trong nhân quả, không có sự biệt trừ. Ai tạo nhân lành thì hưởng kết quả an vui, ai gieo nhân ác thì lãnh hậu quả đau khổ. Con người nếu biết dừng các nghiệp nhân xấu ác, bất thiện từ trước, ngày nay biết tạo nhiều nghiệp nhân thiện lành phước báu; đến khi nghiệp quả, nghiệp báo xảy đến, còn gọi là quả báo, con người cũng phải đền trả, nhưng nhờ có phước báo nên chỉ đền trả một cách nhẹ nhàng hơn. Ðó chính là “Bình đẳng tánh trong nhân quả”.
Như muốn được an lạc hạnh phúc, con người phải biết xả bỏ oán kết với người, lấy ân báo oán, oán nghiệp sẽ tự tiêu tan. Người muốn tạo phước đức, để không phải đền trả quả báo một cách nặng nề do nghiệp nhân cũ, trước hết phải tự thanh lọc thân khẩu ý cho toàn thiện, tự chế tham sân si của bản thân, tu nhân tích đức, giúp đỡ người hoạn nạn. Ðó là phép tu chuyển nghiệp tốt nhất.
Tự thân mỗi người khi sanh ra trong thế gian này đều khác nhau về hoàn cảnh, phước báo, khả năng, thể chất, tri thức. Hiểu rõ được các sai khác này là sự suy nghĩ chân chánh, trong bát chánh đạo gọi là chánh tư duy. Từ đó, chúng ta sẽ sống vì người, nghĩa là không so đo, không hơn thua, không ganh ghét đố kỵ và không thù hằn vô cớ với người.
Chúng ta cảm thấy vui với hạnh phúc của người, biết chia sẻ nỗi khổ của người bất hạnh, biết cách đối xử với nhau bằng sự chân thật của lòng bình đẳng vị tha. Nếu con người luôn sống đời phạm hạnh đạo đức, tâm tánh bình đẳng khiêm cung, lòng bao dung và bình đẳng với người kém phước hơn mình, chính là nhân lành đem về kết quả an vui. Sống trên đời không ai muốn bị sỉ nhục, tài sản bị chiếm đoạt, hay bị mất thân mạng. Những hành động tốt giúp đỡ người cô thế, an ủi người bị thất bại, lòng tôn trọng người sẽ được người tôn kính trở lại.
* Tôn trọng nhân phẩm của mọi người.
* Tôn trọng tài sản của mọi người.
* Tôn trọng sinh mạng của mọi người.
Bình Ðẳng Tánh Trong Ðạo Phật:
Ðức Phật như một tấm gương sáng ngời, đạo hạnh của Ngài chuyển hóa được xã hội đầy những chia rẽ, bất công, trở về đời sống đạo đức. Giáo lý của Đức Phật là sự bình đẳng công bằng tuyệt đối, đem mọi người trong xã hội ngồi gần lại với nhau. Đạo Phật dạy, giữa người với người một cái nhìn khinh mạn, một cử chỉ chê cười cũng không nên có.
Ngày nay, mọi người gặp nhau trong chùa, thường chắp tay chào nhau một cách cung kính, đó là thể hiện sự trân trọng Phật Tánh bình đẳng sẵn có của mỗi người, không phân biệt tại gia hay xuất gia, hoặc tướng giàu, tướng nghèo, địa vị cao hay thấp. Khi chào nhau như vậy, tâm con người trở nên khiêm hạ vô tư, tinh thần bình đẳng trong đạo Phật là không thấy mình lễ và không phân biệt người nhận lễ. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Ðó là hình ảnh thật đẹp và cao quí vô cùng của những người biết tôn trọng “Sự bình đẳng trong Đạo Phật”.
Căn bản của đạo Phật là sự sáng suốt ngay tự thân tâm thanh tịnh, rèn luyện người tu đức tánh bình đẳng bằng Phật tâm, Phật tánh. Con người muốn tu phải diệt lòng tham lam, sân hận, si mê và ích kỷ ngã mạn, chân thật cao thượng theo lời Phật dạy. Sự tôn trọng nhân phẩm tất cả mọi người, từ hành động thân khẩu ý đều do tâm từ thanh tịnh mà ra. Đạo Phật khuyến khích con người tu tâm dưỡng tánh, khai mở trí tuệ, tăng trưởng thiện căn, tạo nhiều phước đức, an lạc và hạnh phúc khắp mọi nơi. Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:
Tâm dẫn đầu mọi pháp
Làm chủ và tạo tác
Lời nói hay hành động
Với tâm từ thanh tịnh
Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng không rời hình.
Diệu Dụng Của Sự Bình Đẳng Tánh:
Khi bản tánh cao thượng của con người không còn thấy ai hơn ai kém, không còn tánh kiêu căng ngã mạn, con người sống trong Phật tánh sáng suốt của “Phật tánh Bình Đẳng ”, nghiã là luôn luôn sống với tâm giống như chư Phật. Sự an lạc chân thật của người có tâm hạnh bình đẳng ảnh hưởng đến những người thân sống chung quanh, cũng là gương giác ngộ sáng suốt lợi tha hiệu quả vô cùng.
Tuy con người mê ngộ không đồng, nhưng Phật tánh đều bình đẳng. Người biết cách tu, không phân biệt tại gia hay xuất gia, có được tánh khiêm cung và bình đẳng, sẽ gặt hái được rất nhiều điều lợi ích cho cuộc sống. Muốn có được công đức và phước đức, dùng làm chiếc thuyền vượt qua biển khổ phiền não vô cùng vô tận từ nhiều đời kiếp, chúng ta cố gắng làm được 10 điều sau:
Tâm cầu đạo, nhiệt thành tinh tấn
Biết hổ thẹn, ghê sợ tội lỗi
Không độc hiễm, thù oán hại người
Không ganh tỵ, đức tánh trong sạch
Không bỏn sẻn, tâm từ quảng đại
Không khinh người, nếp sống đạo đức
Tu đạo hạnh, trau giồi Phật pháp,
Làm từ thiện, giúp đời cứu người
Biết hy sinh, vì người quên mình.
Hành việc đạo, sáng suốt khôn ngoan.
Ðức Phật thành đạo ngay cõi ta bà và thuyết pháp độ sanh suốt 45 năm cho đến lúc nhập diệt, để lại bao nhiêu lời dạy vàng ngọc quí báu hơn cả trân châu trong cõi đời. Tâm đại từ đại bi như cha lành thương con, tất cả đệ tử đều phải nương vào giáo lý của đức Thế Tôn trao truyền mà được giác ngộ sáng suốt theo chánh đạo, không đi sai đường vào tà đạo. Ðức Phật dạy ba môn học “Giới Ðịnh Tuệ” làm căn bản, nghĩa là hành giả tu theo Phật phải tự thắp đuốc lên mà đi, để biết đường mà tu, biết đạo mà hành.
- Giới là những điều luật giữ cho con người không tạo nghiệp ác.
- Ðịnh là sự hành trì tu tập đoan chánh đi đến nhất tâm không còn loạn động.
- Tuệ là sự giác ngộ sáng suốt giải thoát sanh tử, đoạn tận vô minh.
Tóm lại, đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát, đức Phật là bậc từ bi và trí tuệ cao tột. Trí tuệ giác ngộ là biết đời sống vô thường, sanh diệt không ngừng, con người chuyển biến từ sanh, lão, đến bịnh, tử; và hiểu được sự bình đẳng vô phân biệt của Phật tánh.
Tâm từ bi đưa con người đến sự giải thoát phiền não của nghiệp chướng nhiều đời kiếp. Người tu biết trưởng dưỡng tâm từ bi, biết giữ giới, tu thiền định, được trí tuệ, tự tu tự độ sẽ được giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi. Ðó là con đường thành đạo quả chánh đẳng chánh giác mà Ðức Thế Tôn đã đi và chỉ dạy với tâm đại từ đại bi cao thượng.
Trong Kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát đã giác ngộ được Phật tánh bình đẳng cao thượng, gặp ai Ngài cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật”.
Phật tánh bình đẳng là sự giác ngộ và giải thoát của Phật tâm, Phật tánh nơi tự thân mỗi con người. Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa. Chánh pháp của đức Phật mãi mãi là con đường tiến đến tâm hạnh thiện lành trọn vẹn cho người tu, và đem lại đời sống đạo đức cao thượng, để không còn cái ta khổ đau và phiền não nữa. Chân lý tối thượng vượt trên tất cả chính là “Phật tánh bình đẳng” vô ngã tuyệt đối. []
CẢM NIỆM MÙA AN CƯ
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Hằng năm, vào mùa an cư, khắp nơi chùa và tự viện đều có tổ chức khóa "An Cư " dành cho tứ chúng khắp
nơi vân tập về nghiên tầm kinh điển, tu học Phật pháp, thụ thanh văn giới, cùng
bồ tát giới, sinh hoạt Phật sự, thiết lễ trai tăng, sửa soạn trai nghi, bố thí
cúng dường, niệm Phật tọa thiền, tụng kinh bái sám.
Truyền thống an cư có từ thời Đức Phật, đem lại lợi ích cho chúng sanh theo nhiều phương diện. Sau những tháng năm du phương hành đạo, tùy theo hoàn cảnh, trong nếp sống và sinh hoạt hàng ngày của mỗi cá nhân, không sao tránh khỏi những giây phút bị phiền não chi phối, tâm bị buông lung. Lại nữa, côn trùng thường sinh sôi nẩy nở trong mùa mưa, cho nên để thúc liễm thân tâm, trưởng dưỡng tâm từ bi, tránh sự giẫm đạp lên sinh mạng côn trùng, chư Tăng Ni cần vân tập về một nơi để tịnh tu.
Sau này tứ chúng đồng tu, mùa an cư trở thành rất quan trọng cho việc trau giồi, thăng tiến về hai mặt “từ bi và trí tuệ”. Đây là cơ hội tứ chúng được thầy tổ và các bậc tôn túc, nhắc nhở lời Phật dạy để áp dụng trong đời sống tu hành hàng ngày. Cũng như mọi năm, năm nay được đủ phước duyên, chúng tôi về tham dự khóa tu an cư, cảm nhận được sự lợi lạc vô cùng, nhờ ân triêm công đức của chư Tôn Đức, cũng như sự phát tâm đóng góp, công quả, cúng dường vật lực, tài lực và sức lực của tứ chúng qui tụ về nơi đây. Xin thực lòng hoan hỷ ghi lại để chia sẻ và cầu mong mọi người hữu duyên cùng tham dự các khóa sang năm để thêm phần lợi ích trên bước đường tu học.
Thời gian 2 tuần của khóa an cư tuy rất ngắn với các kỷ luật tự giác như: không nói chuyện nhiều, giữ tâm thanh tịnh, thời khóa đúng giờ, đã đem lại cho tứ chúng niềm hỷ lạc vô biên, cảm nhận được sự tu tập hành trì có phần tiến bộ hơn trước rất nhiều. Mọi người được sống trong sự tự do đúng nghĩa của người tu, những ràng buộc, những chướng ngại, những khổ đau, những phiền não, từ nội tâm cho đến ngoại cảnh, từ lâu không buông bỏ được, nay như được giải tỏa.
Trong thế giới hiện nay, có quá nhiều phương tiện vật chất, con người gần như thỏa mãn được các nhu cầu và tham vọng. Nhưng có mấy ai thấy được sự tự do thực sự đâu? Tâm trí con người thế gian luôn bị trói buộc, quấy nhiểu và chi phối bởi sự ham muốn và ích kỷ. Chỉ có chánh đạo là con đường giải thoát, giúp con người vượt qua được tất cả phiền não và khổ đau. Nơi sinh hoạt chính của khóa nghiên tu an cư tại Chánh điện, được thiết kế rất mỹ quan, ánh sáng dịu dàng trong mát, trần cao sáng sủa, không gian rộng rãi, thanh tịnh, trầm hùng và uy nghiêm. Tôn tượng của Đức Phật Thích Ca trong tư thế hành thiền, mắt khép lại, mỉm nụ cười thanh thoát, biểu tượng rõ ràng nhất của sự giác ngộ và giải thoát, được an vị nơi trang nghiêm nhất. Hai bên có tôn tượng của Bồ Tát Quán Âm và Bồ Tát Địa Tạng rất đơn giản và trang nghiêm. Mỗi buổi sáng, chúng tôi thức dậy thật sớm, nhẹ nhàng từng bước chân yên lặng lên chánh điện, ngồi vào chỗ của mình, xếp chân và hành thiền trong tỉnh lặng. 30 phút tọa thiền, trước khóa công phu sáng tụng chú Thủ Lăng Nghiêm, giúp cho người tu trở về với bản tâm thanh tịnh, tránh những giây phút căng thẳng, ồn ào, phiền muộn, cảm nhận được sự thoải mái, hạnh phúc an lạc trong tâm.
Chư Tổ có dạy:
Tỉnh tọa thường tư kỷ quá.
Nhàn đàm bất luận nhân phi.
Ngồi yên lặng để suy tư, nhận ra những lỗi lầm của mình. Lúc nhàn rỗi không
luận bàn cái sai, cái dỡ của thế nhân. Tỉnh tọa hay thiền tọa giúp cho người tu
đạt được niềm an lạc hạnh phúc vô biên, can đảm nhìn thấy sự thô tháo, sai quấy
của bản thân và phát huy được sức mạnh của nội tâm. Tinh tấn khắc phục được sự
giải đãi, tăng niềm tự tin trong cuộc sống, thấy được các pháp thế gian là tạm
bợ, là vô thường, biến đổi trong từng sát na, từng giây phút, từng hơi thở vào
ra.
Các thời khóa tụng chú
Thủ Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa hay các khóa bái sám, giúp người tụng
đọc cũng như người ngồi nghe lắng lòng tiếp thu những lời dạy quí báu của Đức Thế Tôn và đem áp dụng ngay
trong đời sống hằng ngày.
Không khí trang nghiêm thanh tịnh của các buổi tụng kinh bái sám tăng thêm tín tâm của người con Phật nơi con đường trung đạo đã được chư Phật chỉ bày, chư Tổ dẫn dắt và chư hiện tiền Tôn đức Tăng Ni thực hành hàng ngày trong cuộc sống tu hành. Không có những khóa tu "An Cư" như thế này, chắc giáo pháp không được truyền tụng cho đến ngày nay.
Đời sống tu tập trong một tập thể đông người, chư Tôn đức và các bạn đồng tu thường xuyên nhắc nhở mọi người, tâm luôn cảnh giác, luôn tỉnh thức, không để các vọng tâm vọng niệm có nhân duyên khởi lên trong tâm trí và hết thảy phải an trú trong hiện tại. Muốn được như vậy, tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả phải bàng bạc khắp chốn, khắp nơi trong suốt khóa tu an cư, tâm không sân hận, không cố chấp, không hơn thua, không thị phi, không nhìn lỗi người, không ganh tị đố kỵ nhỏ nhoi, đừng làm mất đi giá trị tích cực của người tu.
Đức Phật Thích Ca là bậc thiên nhơn sư, bậc toàn giác đạo hạnh viên mãn, đã chứng đạt thông suốt, chỉ dạy con đường tu giác ngộ và giải thoát cho tứ chúng một cách đồng đều và bình đẳng.
Bổn phận chúng ta phải sống thế nào, hành trì thế nào, giữ gìn giáo pháp thế nào để đạt được mục đích cứu cánh của đạo Phật, để xứng đáng là người con Phật, dù tại gia hay xuất gia.
Con người trôi lăn trong sanh tử luân
hồi, kiếp sống thật là ngắn ngủi, hết kiếp này tái sanh kiếp khác tùy theo
nghiệp lực của từng người. Con người thường không thích nhìn nhận sự thật đó,
muốn lãng quên sự thật, để được sống trong mơ, có được ảo giác đời sống sung
sướng an nhàn, tìm pháp tu dễ tu dễ chứng, dễ lên cõi sung sướng khác, để tiếp
tục được hưởng thụ!
Cho nên, dù là người tu tại gia hay xuất gia, con người thường quên rằng mình
là hành giả, phải tỉnh thức, phải tự cất bước, tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên
ngọn đuốc chánh pháp, để soi sáng con đường chánh đạo, không để rơi vào tà đạo
do sự dễ duôi của chính bản thân mình.
Thực tế, con người còn sống là còn động, còn sinh hoạt là còn phiền não, còn ưu
tư, lo lắng. Hãy nhìn vào thực tế bằng tâm tỉnh thức, không chấp trước, chuyện
gì rồi cũng qua, hãy để cho qua luôn, đừng dính mắc, con người sẽ tháo gỡ được
bao nhiêu là muộn phiền, khổ đau! Trong khung cảnh thanh tịnh của khóa
nghiên tu an cư, mọi người rồi sẽ tìm được pháp môn tu thích hợp cho căn cơ
trình độ hay hoàn cảnh của riêng mình, đừng phí phạm thời gian quí báu này!
Đức Phật dạy:
“Nhơn thân nan đắc
Diệu đạo nan cầu”.
Thân người khó được. Chánh pháp khó gặp. Kiếp này đã được thân người, được gặp bạn
đồng tu, lại gặp chánh pháp trong những khóa tu an cư này, mọi người đều quyết
tâm tu tiến, không chờ đợi gì nữa, quyết trừ sạch các tâm ô nhiễm ganh tỵ đố
kị, tham lam, sân hận, si mê.
Sau thời khóa công phu sáng, mọi người được thưởng thức tách trà đậm đà hương
vị hay ly cà phê nóng. Có người thì kinh hành niệm Phật chung quanh tôn tượng
Bồ Tát Quán Âm lộ thiên trong sân chùa. Có người tham dự lớp tập thể dục hay
lớp tập khí công. Trong khi đó, nhiều người có trách nhiệm trai soạn và hành
đường chuẩn bị dọn buổi điểm tâm cho đại chúng. Ban trai soạn phải lo chuẩn bị
các thứ sẵn sàng từ đêm hôm trước.
Sáng ra, các cụ bà trong ban trai soạn thức thật sớm, khoảng 4 giờ sáng, trong
lúc mọi người còn an giấc, để nấu những chỏ xôi thật lớn, vo nắn những chiếc
bánh ít trần ngon, hấp những đòn chả chay được cuộn tròn thực công phu, để phục
vụ đại chúng hàng trăm người tham dự khóa tu an cư có được những bửa ăn thanh
đạm, có sức khỏe để tu tập được tốt!
Nhắc đến các cụ bà trong ban trai soạn, ai cũng phải nghiêng mình cảm phục, tán
thán sức tinh tấn và tấm lòng vị đạo pháp, vì bá tánh đồng tu, ngày đêm không
quản việc nặng việc nhẹ, luôn luôn tươi cười an lạc với những chảo thức ăn to
lớn, những nồi súp khổng lồ, những thùng rau cải cao ngất, áo quần đôi lúc lắm
lem những bột trắng, dầu ăn và nhất là cụ bà nào cũng có cái thắt lưng dày cứng
chống đau lưng, ẩn hiện dưới lớp tạp dề làm bếp! Có cụ bà tâm sự, tôi mới
ở nhà thương về, nghe có khóa tu an cư, liền đến chùa, xem có việc gì nhẹ nhẹ
làm giúp, đỡ tay đỡ chân đó mà, nhưng đến đây thấy công việc quá bề bộn, quên
luôn bệnh, nhờ Bồ Tát gia hộ, làm luôn mấy hôm rồi đó, khoẻ lắm!
Từng giọt mồ hôi trên những gương mặt trải dài tháng năm, hơn 70 tuổi đời,
nhiều cụ bà dù chưa thọ Bồ Tát giới, nhưng rõ ràng đang hành Bồ Tát hạnh, tận
tâm tận sức phục vụ đại chúng tham dự khóa nghiên tu an cư, một lòng mõi mệt
không nài, tấm lòng của các cụ bà như những viên ngọc quí, thực hành lời chư Tổ
dạy:"Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư
Phật!"
Cho nên mọi người, không ai bảo ai, tất cả đều tâm niệm trân quí những vật thực do quí cụ bà làm ra với công sức khéo léo, công phu miệt mài ngày đêm, không để phí phạm, không khởi tâm khen chê!
Trước khi thọ thực, mọi người đều thầm niệm tam đề và ngũ quán.
Tam đề:
Một là nguyện không làm các điều ác,
Hai là nguyện siêng làm các việc lành,
Ba là nguyện độ tất cả chúng sanh.
Ngũ quán:
Một nghĩ đến công sức cực khổ của thí chủ cúng dường vật thực,
Hai xem xét đức hạnh có xứng đáng thọ dụng vật thực,
Ba ngăn ngừa lòng tham ăn và thói quen chê khen,
Bốn xem vật thực như món thuốc trị bệnh đói,
Năm tạm dùng vật thực để có sức khoẻ hành đạo.
Tam đề và ngũ quán là phương tiện chư Tổ dạy người tu để nhiếp phục tâm, trước và trong khi thọ dụng vật thực cúng dường, để tăng trưởng từ bi và trí tuệ. Những buổi cúng dường trai nghi, trai tăng rất trang nghiêm thanh tịnh, tứ chúng đồng tu tụng niệm hồi hướng cho gia đình thí chủ và cho chúng sanh trong khắp pháp giới đời đời được gặp chánh pháp để tiến tu cho đến ngày giác ngộ và giải thoát.
Tứ chúng đồng tu theo pháp lục hòa, tuy có khác nhau về xuất xứ, trong hay ngoài giáo hội, nhưng tất cả đều bất tùy phân biệt, cư xử bình đẳng, thanh tịnh và hòa hợp, từ vật chất cho đến tinh thần, hòa vui chấp tác, hành đường, giúp nhau từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, việc nặng hay việc nhẹ, tất cả đều hiểu biết và thương yêu nhau trong tình đạo vị của chốn thiền môn an tịnh trong suốt khóa tu an cư. Đó mới thật là chân chánh tu hành.
Trong các ngày mùng một hay ngày rằm, cũng là ngày trưởng tịnh, lễ bố tát cũng được sự quan tâm đại chúng, thực hành tụng đọc giới bổn, phát lồ sám hối, nhắc nhở tứ chúng tâm chớ buông lung trong sinh hoạt hàng ngày, phải biết tàm quí và sám hối khi lỗi lầm, không có ai không phạm lỗi, điều quan trọng là phải nhận thấy và biết tu sửa. Giữ gìn giới bổn người tu có đầy đủ đức độ, oai nghi tế hạnh, giúp ích cho bản thân, cho tứ chúng đồng tu phạm hạnh, giảm bớt khổ đau phiền muộn, tăng trưởng nhiều an lạc và hạnh phúc nội tâm.
Đức Phật dạy:
“Tâm dẫn đầu các pháp. Ý tạo tác mọi việc thiện ác”. Cho nên tứ chúng đồng tu cần giữ gìn lời nói ôn hòa nhã nhặn, tránh hành động làm buồn lòng người khác, đối xử bất tùy phân biệt dù trước mặt hay sau lưng.
Tóm lại, được các Bậc Tôn Đức giảng dạy kinh luật luận, được tứ chúng câu hội về cùng tu, nhắc nhở nhau về phạm hạnh, nhiếp tâm thanh tịnh, trao đổi kinh nghiệm tu tập và hành đạo, tăng trưởng mối đạo tình, đạo vị nồng thắm, đưa đến các mối quan hệ thân hữu có giá trị giáo dục cao, đó là phước của tứ chúng, cho nên mùa an cư được Đức Phật đánh giá cao.
Đức Phật dạy: Quả thật tất cả đời sống đồng phạm hạnh
của tứ chúng cốt yếu ở tình thân hữu giữa những người ưa thích những điều
thiện, ở tình đồng đạo, đồng chí hướng. Một tỳ kheo làm bạn với điều thiện, là
người bạn giao du có triễn vọng tu tập và làm sung mãn bát chánh đạo, giải
thoát cho đồng bạn cũng như cho bản thân vị ấy.
Trong nhiều năm qua, tứ chúng khắp nơi đã ân triêm công đức giáo dưỡng của chư
Tôn Đức chân tu thật học, đó là phước báu của kiếp được làm thân người, lại
được gặp chánh pháp và biết tu tập. Chúng con đê đầu đảnh lễ, thành kính tri ân
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, ngưỡng nguyện Hồng ân Tam Bảo thùy từ gia hộ
cho Phật Pháp trường tồn, chúng sanh dị độ, tuệ đăng thường chiếu, Phật sự
chu viên, Phật quả chóng thành.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
DIỆU ĐẠO NAN CẦU
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Ngài Viễn Công nói:
“Trong trời đất thực có những vật dễ sinh. Nhưng, một ngày ấm mà mười ngày
lạnh, thì cũng chưa thấy vật nào có thể sinh được. Diệu đạo vô thượng rõ ràng ở
nơi tâm, và ngay trước mắt mình, nên cũng dễ thấy được. Song cốt yếu là chí
phải bền, làm phải tận lực thì ngay nơi mình, đứng, ngồi cũng có thể mong đợi
mà đạt tới được. Nếu một ngày tin, mười ngày ngờ, sớm siêng tối nản, thì không
những ngay trước mắt khó mà thấy được, tôi sợ rằng suốt đời cũng vẫn cách xa
diệu đạo vậy”. (Thiền Lâm Bảo Huấn - Phẩm Tự Cường).
“Thiền Lâm Bảo Huấn” là cơ duyên may mắn cho tứ chúng
đồng tu, cảm nhận hỷ lạc trong mưa pháp, kiếp sống con người vén được màn vô
minh, khổ đau phiền não do sự chiêu cảm từ nhiều đời kiếp luân hồi như được
giải tỏa. Trên đời không có cuộc vui nào vui hơn sống trong biển giáo pháp.
Nhân thân nan đắc
Diệu đạo nan cầu.
(Thân người khó được
Diệu đạo khó cầu).
Từ khi được cha mẹ sanh ra, có được thân người đầy đủ trang nghiêm, đó
là phước báo thiện lành. Hãy thường tư duy rằng trải qua nhiều đời nhiều kiếp
ta mới được nhàn cảnh thân người như vậy. Nhưng đã sanh ra đời thì có khổ, nhờ
đau khổ mà ta phát sinh tâm chán lìa sinh tử, kiêu căng tan biến, phát tâm
thương xót những chúng sanh trong cõi luân hồi, tự hổ thẹn về việc ác và hoan
hỷ làm điều lành.
Tuổi đời càng thêm lớn, chướng duyên, thuận duyên đưa đến càng nhiều, thân tâm
có lúc an vui, có lúc phiền não, buồn giận, thương ghét, tự ti, tự tôn, tâm
sanh diệt luôn luôn hiện hữu chi phối làm cho con người đôi khi quên mất mình
và quên luôn thời gian đang lướt qua trước mắt, khi giật mình thì tóc đã đổi
màu, vô thường kề ở bên mình. Tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp đều theo luật nhân
quả mà thọ sanh. Đường sinh tử luân hồi sáu nẽo không biết về đâu?! Tâm đại từ đại bi của Đức Phật vì thương xót sự vô minh của chúng sinh mà thị
hiện ra đời, để chỉ diệu đạo - con đường vi diệu - ngay trước mắt. Diệu đạo là
những gì Đức Phật đã chứng nghiệm và đã trải qua bằng trí tuệ giác ngộ cao
thượng của bậc chánh đẳng chánh giác. Diệu đạo không do mong cầu mà có được,
cũng không do lễ bái khấn nguyện mà thấy được.
Trong Tăng chi bộ kinh
“Ta không dạy ai đến để tin, nhưng đến để thấy và thực hành. Trong cuộc sống ta có thể tự giải thoát cho chính mình. Giải thoát không tự nhiên mà có, cũng không do cầu xin mà được, mà chỉ cần phát triển nổ lực vào trí tuệ. Ta không nên tin một cách mù quáng bất cứ việc gì mà chưa thông qua trí tuệ, phải sáng suốt nhận định một cách rõ ràng đứng đắn rồi mới hành trì. Nếu thấy bình an và hạnh phúc là giải thoát. Nếu thấy trói buộc và phiền não là sai đường”.
Tu theo Phật nghĩa là phải chuyên tâm giữ chánh niệm, không theo tạp niệm, như
kẻ đội bát dầu trên đầu, bị người đưa gươm kề cổ dọa sẽ giết chết nếu đổ đi một
giọt.
Bản chất thực sự của đời sống, là nguyên nhân sanh đau khổ và nguyên nhân sanh
hạnh phúc, người tu thấy rõ bằng mắt rất chân và rất thật, thì khi ấy mới quyết
tâm chuyển đổi trở nên con người đạo đức nhằm đưa đến giải thoát cùng tột, đồng
thời đem về trạng thái quân bình cho cuộc sống.
Giây phút hiện tại, chúng ta có thể nhận thức được thực tế cuộc đời không mơ
hồ, không mộng tưởng điên đảo, thì sẽ cảm nhận và thấu hiểu được sự chân thật
của diệu pháp không còn xa cách nữa, mà ở trong từng hơi thở, trong từng tâm
thức vắng lặng vô trụ và vô niệm.
Trong kinh thường nói, chỉ có trí tuệ mới đem đến cho người tu một sự kiên nhẩn
bền chí để đi đến giác ngộ và giải thoát mà thôi. Nhu cầu cuộc sống nếu biết
đủ, sống thanh đạm, không đòi hỏi nhiều, không tranh chấp hơn thua được mất,
thì người tu có rất nhiều thì giờ để tận dụng khả năng nghiên cứu, suy tư học
đạo, giữ tâm ý trong sạch. Phụng trì giới luật, trang nghiêm thân tướng, ngày
đêm suy nghĩ, sớm hôm thực hành thì không lo gì không thấy được diệu đạo vậy.
Theo như Ngài Viễn Công dạy, nếu như có ngày tu học tinh tấn, có ngày buông
xuôi trì trệ, bản tánh dễ duôi, khiến con người rơi vào tình trạng giãi đãi,
mất hết năng lực tự tin về mình, hiện tượng vọng tâm vọng niệm xấu ác, ganh tị
đố kỵ sẽ xâm nhập và quấy nhiễu chế ngự người tu một cách dễ dàng. Diệu đạo
suốt đời khó gặp, thật uổng phí một đời tu!
Khi bước trên đường đạo, chúng ta mang nhiều nghiệp bất tịnh của luân hồi cho nên hành động từ thân, khẩu, ý tha hồ tạo tác. Do đó khi chuyển thân trên bước đường tu hành thường rơi vào trạng thái mê và tỉnh, thiện và ác lẫn lộn. Cho nên không phải xấu tốt ở bên ngoài không thôi, mà xấu tốt thiện ác nằm thật sự ở ngay trong tâm, biết xấu hổ, sợ quả báo, tâm an tịnh, siêng năng đem an vui cho mình và cho người, nhận thức sớm được chừng nào thì “diệu đạo” ngay trước mắt.
Để giúp hành giả tiến đến đời sống thánh thiện và trọn lành vi diệu trên đường
tu, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ban truyền các giới luật cao thượng. Giới luật
mới nghe qua chừng như một sự răn cấm khắt khe, đầy những điều kiện khó khăn,
nhưng khi thấu hiểu và cố gắng sống với thân tâm một cách chân thành và thực
sự, thì giới luật giúp ích cho người tu rất nhiều. Khi ấy, giới là người bạn đạo chân thật, là phương pháp thực tập chánh niệm hữu
hiệu nhất, là sự bảo vệ an lành nhẹ nhàng trong sáng của thế giới tuyệt đẹp, mà
người tu theo Phật được thừa hưởng, như một chuỗi ngọc vô giá sáng ngời trí tuệ
của Bồ tát Quán Tự Tại cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm trong phẩm “Phổ Môn” vậy.
Tóm lại, an lạc thay khi sống trong pháp vị, thật sự buông bỏ những lo
âu phiền muộn, mưa pháp cam lồ liên tục đã nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng. Phước
báo thay tứ chúng đồng tu, đều hoan hỷ vì thấm nhuần được sự lợi ích khi đem
vào cuộc sống tỉnh tu hằng ngày ở nơi trụ xứ. Mưa pháp làm hạt giống Phật tánh
ở nơi mỗi người từ lâu bị chôn vùi khô cạn, nay như được nẩy mầm, đâm chồi kết
lộc.
“Qua lẽ tuần hoàn của vũ trụ, sự vật có trải qua sự nghiêm khắc của mùa đông, khi sức sống trỗi dậy, trăm hoa đua nở, cây cỏ xanh tươi, mới thấy ánh xuân đầm ấm là quí. Tất cả hiện tượng tốt xấu của xã hội đều do tâm chúng ta sáng tạo. Chúng ta phải có tinh thần tự chủ. Tự thân chúng ta, luôn luôn phải thúc liễm, phải tỉnh thức, phải trong sạch hóa tâm hồn, hành động, nói năng, suy nghĩ, mới có thể đem lại lợi ích cho tha nhân, cho quốc gia, cho cộng đồng và cho nhân loại”.
Đối trước mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, con xin chắp
tay đảnh lễ, chí thành cầu khẩn các Ngài trụ thế lâu dài và hãy vì chúng sanh
đau khổ mê mờ mà đốt lên ngọn đuốc chánh pháp. []
(Thơ) VƯỢT THOÁT
Y VÀNG THANH TỊNH CÕI VÔ TRANH
TRANG NGHIÊM THÂN TƯỚNG PHÁP MÔN HÀNH
TRÍ TUỆ RẠNG SOI VỪNG NHẬT NGUYỆT
TỪ BI VÔ LƯỢNG CỨU QUẦN SANH
GIÁC NGỘ TÌM CẦU NƠI BỂ THÁNH
GIẢI THOÁT THÂN TÂM PHẬT ĐẠO THÀNH
AN NHIÊN TỰ TẠI TA BÀ KHỔ
SEN HỒNG VƯỢT THOÁT CHỐN BÙN TANH
KHO BÁO NIỀM TIN VÀ TRÍ TUỆ
http://lotus-lantern-canada.blogspot.com/2011/06/cu-kho-bao-niem-tin-va-tri-tue.html
TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP
http://lotus-lantern-canada.blogspot.com/2011/07/tram-ngan-muon-kiep-khong-de-gap.html
TỰ TÁNH TAM BẢO VIÊN NGỌC MINH CHÂU
http://lotus-lantern-canada.blogspot.com/2011/11/tu-tanh-tam-bao-vien-ngoc-minh-chau.html
BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
http://lotus-lantern-canada.blogspot.com/2012/04/bo-tat-thien-thu-thien-nhan.html
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
http://lotus-lantern-canada.blogspot.com/2014/01/anh-sang-tu-cau-kinh-phat.html