Wednesday, February 14, 2018

***XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU



XUÂN TRONG

NÉT ĐẸP NGƯỜI TU

TKN Thích Nữ Chân Liễu


Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.

Một sức sống vui tươi vô cùng kỳ diệu khi nhìn cảnh sắc xinh tươi của "Mùa Xuân", tâm tình ai ai cũng cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ đón mừng mùa xuân an lạc hạnh phúc, cát tường như ý. Hương xuân làm con người lạc quan yêu đời, cũng là thời gian mà người tu tâm dưỡng tánh có thể chuyển mình tự đứng lên, vượt thoát quá khứ nhiều phiền não, nhìn về tương lai đầy hứa hẹn.

Đệ tử Phật gia ai ai cũng mong ước được vô lượng an lạc, vạn sự cát tường, Phật sự hanh thông, Phật đạo viên thành và đạt được mùa xuân miên viễn, như những lời chúc đầy đạo vị mỗi khi xuân về.

Mong ước đạt được những điều chúc tụng đầy ý nghĩa trong dịp xuân về, người con Phật nên hiểu rõ ràng về giáo lý nhân quả và sự thực hành đúng chánh pháp, áp dụng giáo lý đạo Phật trong đời sống hằng ngày.

Điều quan trọng vô cùng sâu sắc của Phật pháp, thể hiện qua giá trị nhân cách sống cao thượng chân chánh của người tu, đó chính là "Xuân trong nét đẹp của người tu", kết quả là sự an lạc cát tường như ý, không mong cầu cũng luôn luôn hiện hữu.

NÉT ĐẸP CỦA 
NGƯỜI TU XUẤT GIA

Theo sự tích của Đức Phật, hình ảnh thanh tịnh, từ tốn, bước chân an lạc xuất trần của một vị Sa môn, cùng tấm áo cà sa đơn giản, đầu trần chân đất, cuộc sống ung dung tự tại đã làm Thái Tử Tất Đạt Đa xúc động. Xuất thân từ cung vàng điện ngọc, địa vị cao sang quyền quí tột đỉnh, nhưng cuộc sống của vị Sa môn Cồ Đàm đơn giản thuần khiết, cơ cực khổ hạnh thể hiện qua một con người siêu việt xuất thế. Đức Phật là nét đẹp đạo hạnh đầy đủ "Từ bi và Trí tuệ". Sự kính phục tuyệt đối của nhân loại về chân lý đạt đến cứu cánh giải thoát sanh tử, ngàn đời nay đến đời sau đối với Ngài là vô cùng vô tận.

Sống trong giới pháp của Đức Phật, người tu xuất gia không phải bận rộn miếng cơm manh áo, không lo toan chuyện thị phi thế gian, là đang được hưởng gia tài của cha lành Thế Tôn để lại. Trên bước đường hành đạo, có nhiều chông gai trắc trở, đồng thời cũng có nhiều cám dỗ của vật chất danh lợi trong giai đoạn tự chế ngự bản thân, đó là thử thách, rèn luyện công phu tu tâm dưỡng tánh.

Đối với mùa xuân mỗi năm qua mau, kiếp sống con người thật ngắn ngủi, nếp sống thanh tịnh trầm mặc của các vị tu sĩ là khép lại bớt lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Mắt: Không thấy vật chất là vĩnh cửu, là quí giá, cần nắm giữ cho riêng mình.
Tai: Không nghe nhiều, không chấp vào tiếng khen chê, sanh tâm thương ghét phân biệt.
Mũi: Không để cho mùi vị, hương lạ làm tâm tán loạn, sanh tâm mê đắm, thích hưởng thụ.
Lưỡi: Không để cho cảm giác ngon dở, ưa thích sai khiến, tạo nghiệp chẳng lành.
Thân: Không hơn thua, đẹp xấu phô trương, sanh lòng khinh mạn đua đòi.
Ý: Không để cho ý sanh vọng tưởng điên đảo, tâm thức tán loạn sẽ rơi vào tội lỗi.

Chứng thực cho sự giải thoát của con người, là được sống thảnh thơi trong an nhàn, tâm an tĩnh, trí sáng suốt, rời xa những bon chen, xô bồ của cuộc sống thường ngày, rời xa vòng danh lợi thế gian, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Ấy chính là khi Tâm ta hoàn toàn an tĩnh.

"Nét đẹp của người xuất gia" không phải là hình tướng khác thường bên ngoài, không phải mũ cao, áo thêu áo gấm, đủ màu đủ sắc. Xuân đối với người xuất gia là cái đẹp trong sáng ở nội tâm, khi Tâm thanh tịnh, rời xa được lòng tham lam, sân hận, si mê, nhân cách thuần hậu, nguyện đem lợi lạc cho mình cho người.

Tâm hạnh người xuất gia cao thượng chân thật vô ngã vị tha, ắt sẽ đạt đến Niết bàn vô lượng an lạc, đó là "Xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia", cũng là giá trị hạnh phúc bất tận cho người tu ngay tại thế gian.

NÉT ĐẸP CỦA
NGƯỜI TU TẠI GIA

Đạo Phật không đòi hỏi mọi người đều phải lên Chùa để tu, cầu Kinh sớm hôm và hàng ngày phải ăn chay khổ hạnh hay buộc phải hoàn toàn cắt đứt tất cả tình thương với người thân, mới gọi là biết tu.

Ý nghĩa của chữ TU là tu tâm sửa tánh. Đức Phật dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhất".

Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê. Kết quả thực tế, cũng là phần thưởng cho những cố gắng, nổ lực không ngừng của người tu tại gia, trước mắt là những  chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.

Một người yếu đuối sợ khó khăn, tâm tánh ích kỷ, thích mơ mộng danh lợi, đòi hỏi nhiều về thú vui vật chất riêng bản thân, muốn một cuộc sống "tu tại gia" không dễ dàng thực hiện được. Một ví dụ, như làm cha mẹ muốn tu tại gia, vừa trách nhiệm lo miếng cơm manh áo cho gia đình, cho các con, lại còn phải hộ trì Tam Bảo, tu học Phật pháp, niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh, tự soi rọi thanh lọc tâm, không phải ai cũng làm được. Nếu thực hành vẹn toàn được công phu "tu tại gia", người tu luôn luôn chịu hy sinh rất nhiều cho riêng bản thân mình, tâm ý cao thượng khó làm khó thực hiện, nhưng đó chính là môi trường tu tâm dưỡng tánh tuyệt vời nhất.
Người muốn tu, ở hoàn cảnh nào cũng tu được, nếu hiểu được cách tu theo lời Phật dạy, nghĩa là áp dụng tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả, khoan dung rộng lượng trong đối xử, biết tự kềm chế thú vui vật chất, mạnh dạn hy sinh lợi ích cá nhân, biết xả bỏ ích kỷ nhỏ nhen. Người tu tại gia tự độ và còn có thể độ được cho những người thân trong gia đình và làm tấm gương  cho con cháu noi theo. Sống biết đủ, không đòi hỏi nhiều, không bận rộn vào cuộc vui vô nghĩa, người "tu tại gia" sẽ có rất nhiều thời gian cho việc nghiên tầm kinh điển, tu học để khai sáng trí tuệ, trưởng dưỡng từ bi.

"Nét đẹp của người tu tại gia" là cuộc sống chân thật hồn nhiên, một nhân cách trong sạch và một tâm Bồ Tát tại gia vô chấp vô phân biệt, vượt qua được hình tướng xuất gia, nhưng vẫn có thể thành tựu đạo nghiệp.
Người "tu tại gia" có thể đem lại cho mình, cho những người thân sống chung quanh sự bình yên tuyệt đối trong tâm hồn, sự thoải mái vô cùng qua cung cách cư xử trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm cũng như ý nghĩ. Đó là ý nghĩa vi diệu tuyệt vời "Xuân trong nét đẹp người tu tại gia", ngay từ những điều vô cùng giản dị trong cuộc sống hằng ngày.

Tóm lại, mùa xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia hay tại gia là ở tâm hạnh của Bồ Tát, nhân cách nghiêm tịnh, giới đức khiêm cung.
 Được gần các "Bậc Thiện Nhân" con người sẽ cảm nhận vô lượng an lạc hạnh phúc, như được hưởng gió mát và ánh nắng ấm áp, đầy đạo vị của những cánh hoa xuân tươi đẹp.

- Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp.
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
- Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp.
- Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
- Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn đẹp.
- Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn ngữ đẹp.
- Không khởi tà niệm, tâm luôn chánh trực, đó là ý đẹp.
- Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
- Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
- Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối thắng.

Mùa xuân tuyệt đẹp với một tâm thức an bình tự tại, người biết tu hãy quay trở về nội tâm, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trưởng dưỡng tâm từ bi, thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình, để ngộ ra "ý xuân vi diệu" này.

Có như vậy, ta mới có thể thanh thản sống đời, không tự ti cũng không tự tôn, với cái nhìn tự tại, vô úy giữa muôn sự có không, đúng sai, hơn thua, được mất, vinh nhục.

Ở thế gian tất cả các pháp sanh diệt đều là vô thường.
"Mùa xuân trong nét đẹp người tu" mới thật sự đem lại thân tâm an lạc, phước trí trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện, vạn sự cát tường. []

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu



XIN QUẺ ĐẦU NĂM



- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?



- Như vậy là xui tận mạng rồi chứ còn gì nữa. Con phải đi chùa lạy Phật nhiều, cúng chùa nhiều, mới hóa giải tai ách này được. Nhớ đó.



- Trời ơi! Chết con rồi, trời!
* * *
- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?

- Chào đạo hữu. Đạo hữu hãy an tâm, không có gì xui xẻo hết đâu. Mấy cái quẻ xăm này để lắc cho vui, để những người còn tin chuyện linh thiêng huyền bí, thích cầu khẩn van xin về chùa dịp đầu năm.
Chuyện hên hay xui của con người tùy thuộc chuyện làm thiện hay làm ác trong cuộc sống, chứ không phải tùy thuộc nơi quẻ xăm này.

Đó là luật nhân quả.
Người làm việc thiện thì gặp phước báo, gặp may, gặp hên.
Người làm việc bất thiện thì gặp quả báo, gặp xui, gặp nạn tai, trắc trở.

- Nếu muốn tránh xui xẻo, tai qua nạn khỏi con phải làm sao?

- Con người nhiều đời nhiều kiếp vừa làm việc thiện, vừa tạo nghiệp chẳng lành. Cho nên, có khi gặp may, có khi chẳng may. Để tránh xui xẻo xảy đến, con người phải biết sám hối và nguyện không làm chuyện sai trái, đem đau khổ cho người, qua thân (đánh người), miệng (chửi mắng, nói xấu), và ý nghĩ (nghĩ xấu, nghi ngờ).
Thêm nữa, hãy tạo phước báu bằng cách cứu người, giúp đời, tu nhân tích đức, bù lại việc xấu ác đã tạo nghiệp trước kia.

- Nhưng mà con vẫn lo sợ chuyện xui xẻo xảy đến. Vậy con phải làm sao?

- Con thử xin quẻ khác xem sao, chắc là quẻ khác?

- Ờ hén, cám ơn Ni sư chỉ dạy rõ ràng. Con sẽ đi chùa thường xuyên để học đạo lý với Ni sư, Ni sư cho phép con nha.
- Mô Phật. Như vậy gọi là đi chùa đúng chánh pháp. Quí lắm. []

Ban Biên-Tập PHTQ
 


CHẮP TAY TRONG CÕI VÔ THƯỜNG




Nhón chân trong cõi hư vô,
Vời trông quê mẹ mấy bờ ruộng thưa?
Cúi nhìn ngọn cỏ đong đưa,
Chắp tay xin một hạt mưa giữa trời.

Lòng người xin được tựa vai,
Thì thầm khe khẽ một lời yêu thương.
Cùng đi trong cõi vô thường,
Nắm tay âm ấm ngón xương ngón gầy.

Mong sao hé mở lòng người,
Cho tôi úp mặt chắp mười ngón tay.
Xương xương mười đốt tay gầy,
Che nghiêng nửa giọt mặn này trong tôi.

Bao giờ giọt nước giữa trời,
Ruộng khô hạt lúa, lòng người hạt mưa.
Tay gầy khép lại ngón thưa,
Cho tôi hứng lấy hạt mưa cõi người.

Bao giờ mở rộng lòng người,
Cho tôi quỳ xuống chắp mười ngón tay,
Rưng rưng nữa giọt mặn này,
Run run  mười đốt tay gầy hiến dâng.

Hoàng Phong



VAN LẠY VÀ CẦU XIN

Đức Phật không phải là thần linh. Ngài không ban phước giáng họa cho ai cả. Ngài là bậc Đạo Sư tìm thấy và chỉ dạy chúng sanh con đường tu giải thoát khỏi cảnh khổ của lục đạo luân hồi. Các vị Tăng Ni tu đang theo Phật cũng không phải là thần, hay thánh. Các vị Tăng Ni không có năng lực nào để cầu xin cho người chết vãng sanh cực lạc theo kiểu cách lễ trai đàn bạt mạng giải oan của các tà sư trong chùa.  Tại sao? Bởi vì các tà sư còn chưa chắc được vãng sanh kia mà. Chúng ta là người tu theo Phật phải có nhận thức sáng suốt biết rõ con đường đúng sai, chứ không phải ai nói gì cũng nghe, ai bày vẽ gì cũng nhắm mắt tin theo!!!
 
Trước Tam bảo, người ta lạy lục cầu xin: xin tai qua nạn khỏi, xin giàu sang phú quý, xin tiền tài, xin địa vị. Họ mang theo rất nhiều lễ vật, xì xụp khấn vái, cầu xin. Họ đem tiền thật mua tiền giả (vàng mã) dâng cúng thánh thần, họ cầu xin thật nhiều tiền thật trở lại. Họ đem dâng cúng một vài trái cây, cầu xin sống thọ. Khắp nơi trong khuôn viên chùa chỗ nào cũng thấy cắm nhang đèn, tiền lẻ rải khắp nơi; lò hóa vàng giả rừng rực cháy mang theo muôn vàn lãng phí. Cảnh chen chúc, giẫm đạp nhau ở cửa thiền để được làm lễ cầu an, cầu siêu, cúng sao giải hạn trong dịp đầu năm không thể chấp nhận được. Tại sao? Cầu an chưa thấy được bình an, đã phải nhập viện vì thương tích do chen lấn, tranh giành giẫm đạp nhau.


Trong tình hình đó, đáng lẽ hàng ngũ Tăng Ni ở các ngôi chùa cần phải hướng dẫn, chấn chỉnh lại nhận thức sai lệch của người dân, của Phật tử. Tuy nhiên, với lý luận phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng mà nhiều ngôi chùa, nhiều nhà sư lại dễ dãi chấp nhận việc người dân, người Phật tử đến chùa chỉ để cầu khẩn van xin phi chánh pháp. Hình ảnh một số nhà sư cúng sao giải hạn, gieo quẻ âm dương, chọn ngày lành tháng tốt, đã và đang dẫn dắt một số khá đông Phật tử dần dần mang đậm màu sắc mê tín, tà pháp, lạc vào tà đạo, nhưng cứ ngỡ rằng mình đi chùa như thế là tốt, được tiếng khen thuần thành, tu giỏi.


Để trả lại sự trang nghiêm thanh tịnh cho chùa chiền, giúp chúng sinh nhận thức rõ về giáo lý và lời dạy của Đức Phật, chùa chiền nên truyền bá phương pháp tu tâm thanh tịnh và tìm được an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại.  
Các bậc chân tu nhận sự cúng dường của bá tánh không phải để tranh danh đoạt lợi, mà dành nhiều thời gian nghiên cứu kinh điển, hiểu rõ lời kinh, tâm từ bi thương xót, giảng dạy Phật tử có căn bản về nhận thức đạo Phật là đạo trí tuệ, đi đúng chánh đạo. 
Tu theo Phật là tự lực, nổ lực, cố gắng để đạt được sự sáng suốt, giác ngộ giải thoát, từ bi trí tuệ. 

Trước hết là chuyển đổi nhận thức đầy mê tín đến cuồng tín do tham sân si của phần đông Phật tử không có giáo lý căn bản, cần nhất là hàng ngũ Tăng Ni tại các chùa chiền hay tự viện. 
Xã hội trong và ngoài nước nhận biết đạo Phật thông qua các hoạt động của hàng ngũ Tăng Ni, Phật tử, sự hiểu sai lầm về đạo Phật đầy mê tín thần quyền trong xã hội văn minh hiện đại ngày nay thật vô cùng tai hại. Cuộc sống thường ngày của Tăng Ni và Phật tử là tấm gương phản chiếu tư tưởng Phật giáo trực tiếp đến cộng đồng và xã hội ngày nay trong và ngoài nước. 

Nếu chúng ta tự nhận là người đang tu theo Phật, đều phải đau lòng và có trách nhiệm đánh lên tiếng chuông thức tỉnh những người đang ngụp lặn trôi theo dòng sông mê!
Phật-Học Tịnh-Quang Canada


DIỆU ĐẠO NAN CẦU 
                          
TKN Thích Nữ Chân Liễu 


 
Ngài Viễn Công nói:  “Trong trời đất thực có những vật dễ sinh. Nhưng, một ngày ấm mà mười ngày lạnh, thì cũng chưa thấy vật nào có thể sinh được. Diệu đạo vô thượng rõ ràng ở nơi tâm, và ngay trước mắt mình, nên cũng dễ thấy được. Song cốt yếu là chí phải bền, làm phải tận lực thì ngay nơi mình, đứng, ngồi cũng có thể mong đợi mà đạt tới được. Nếu một ngày tin, mười ngày ngờ, sớm siêng tối nản, thì không những ngay trước mắt khó mà thấy được, tôi sợ rằng suốt đời cũng vẫn cách xa diệu đạo vậy”. (Thiền Lâm Bảo Huấn - Phẩm Tự Cường).

“Thiền Lâm Bảo Huấn”   là cơ duyên may mắn cho tứ chúng đồng tu, cảm nhận hỷ lạc trong mưa pháp, kiếp sống con người vén được màn vô minh, khổ đau phiền não do sự chiêu cảm từ nhiều đời kiếp luân hồi như được giải tỏa. Trên đời không có cuộc vui nào vui hơn sống trong biển giáo pháp.
Nhân thân nan đắc
Diệu đạo nan cầu.
(Thân người khó được
Diệu đạo khó cầu).
Từ khi được cha mẹ sanh ra, có được thân người đầy đủ trang nghiêm, đó là phước báo thiện lành. Hãy thường tư duy rằng trải qua nhiều đời nhiều kiếp ta mới được nhàn cảnh thân người như vậy. Nhưng đã sanh ra đời thì có khổ, nhờ đau khổ mà ta phát sinh tâm chán lìa sinh tử, kiêu căng tan biến, phát tâm thương xót những chúng sanh trong cõi luân hồi, tự hổ thẹn về việc ác và hoan hỷ làm điều lành.

Tuổi đời càng thêm lớn, những chướng duyên cùng thuận duyên đưa đến càng nhiều, thân tâm có lúc an vui, có lúc phiền não, buồn giận, thương ghét, tự ti, tự tôn. Tâm sanh diệt luôn luôn hiện hữu chi phối, làm cho con người đôi khi quên mất mình và quên luôn thời gian đang lướt qua trước mắt, khi giật mình thì tóc đã đổi màu, vô thường kề ở bên mình. Tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp đều theo luật nhân quả mà thọ sanh. Đường sinh tử luân hồi sáu nẽo không biết về đâu?!

Tâm đại từ đại bi của Đức Phật vì thương xót sự vô minh của chúng sinh mà thị hiện ra đời, để chỉ diệu đạo - con đường vi diệu - ngay trước mắt. Diệu đạo là những gì Đức Phật đã chứng nghiệm và đã trải qua bằng trí tuệ giác ngộ cao thượng của bậc chánh đẳng chánh giác. Diệu đạo không do mong cầu mà có được, cũng không do lễ bái khấn nguyện mà có thể thấy được.

Trong Tăng chi bộ kinh, Đức Phật dạy:
“Ta không dạy ai đến để tin, nhưng đến để thấy và thực hành. Trong cuộc sống ta có thể tự giải thoát cho chính mình. Giải thoát không tự nhiên mà có, cũng không do cầu xin mà được, mà chỉ cần phát triển nổ lực vào trí tuệ. Ta không nên tin một cách mù quáng bất cứ việc gì mà chưa thông qua trí tuệ, phải sáng suốt nhận định một cách rõ ràng đứng đắn rồi mới hành trì. Nếu thấy bình an và hạnh phúc là giải thoát. Nếu thấy trói buộc và phiền não là sai đường”.
Tu theo Phật nghĩa là phải chuyên tâm giữ chánh niệm, không theo tạp niệm, như kẻ đội bát dầu trên đầu, bị người đưa gươm kề cổ dọa sẽ giết chết nếu đổ đi một giọt.
Bản chất thực sự của đời sống, là nguyên nhân sanh đau khổ và nguyên nhân sanh hạnh phúc. Người tu thấy rõ bằng mắt rất chân và rất thật, thì khi ấy mới quyết tâm chuyển đổi trở nên con người đạo đức nhằm đưa đến giải thoát cùng tột, đồng thời đem về trạng thái quân bình cho cuộc sống.

Giây phút hiện tại, chúng ta có thể nhận thức được thực tế cuộc đời không mơ hồ, không mộng tưởng điên đảo, thì sẽ cảm nhận và thấu hiểu được sự chân thật của diệu pháp không còn xa cách nữa, mà ở trong từng hơi thở, trong từng tâm thức vắng lặng bình an. Tâm không còn sanh chấp vào tướng, chấp vào pháp, mà hoàn toàn chánh định, vô trụ và vô niệm.

Trong kinh thường nói, chỉ có trí tuệ mới đem đến cho người tu một sự kiên nhẩn bền chí để đi đến giác ngộ và giải thoát mà thôi. Nhu cầu cuộc sống nếu biết đủ, sống thanh đạm, không đòi hỏi nhiều, không tranh chấp hơn thua được mất, thì người tu có rất nhiều thì giờ để tận dụng khả năng nghiên cứu, suy tư học đạo và luôn giữ tâm ý trong sạch. Phụng trì giới luật, trang nghiêm thân tướng, ngày đêm suy nghĩ, sớm hôm thực hành thì không lo gì không thấy được
"diệu đạo" vậy.

Theo như Ngài Viễn Công dạy, nếu như có ngày tu học tinh tấn, có ngày buông xuôi trì trệ, bản tánh dễ duôi, khiến con người rơi vào tình trạng giãi đãi, mất hết năng lực tự tin về mình, hiện tượng vọng tâm vọng niệm xấu ác, ganh tị đố kỵ sẽ xâm nhập và quấy nhiễu chế ngự người tu một cách dễ dàng. Diệu đạo suốt đời khó gặp, thật uổng phí một đời tu!

Khi bước trên đường đạo, chúng ta mang nhiều nghiệp bất tịnh của luân hồi cho nên hành động từ thân, khẩu, ý tha hồ tạo tác.  Do đó khi chuyển thân trên bước đường tu hành thường rơi vào trạng thái mê và tỉnh, thiện và ác lẫn lộn.

Cho nên không phải xấu tốt ở bên ngoài không thôi, mà xấu tốt thiện ác nằm thật sự ở ngay trong tâm. Biết xấu hổ, sợ quả báo, tâm an tịnh, siêng năng đem an vui cho mình và cho người, nhận thức sớm được chừng nào thì
“diệu đạo” ngay trước mắt. 

Để giúp hành giả tiến đến đời sống thánh thiện và trọn lành vi diệu trên đường tu, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ban truyền các giới luật cao thượng. Giới luật mới nghe qua chừng như một sự răn cấm khắt khe, đầy những điều kiện khó khăn, nhưng khi thấu hiểu và cố gắng sống với thân tâm một cách chân thành và thực sự, thì giới luật giúp ích cho người tu rất nhiều.

Khi ấy, giới là người bạn đạo chân thật, là phương pháp thực tập chánh niệm hữu hiệu nhất. Đó là sự bảo vệ an lành nhẹ nhàng trong sáng của thế giới tuyệt đẹp, mà người tu theo Phật được thừa hưởng, như "Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí" vô giá, sáng ngời trí tuệ của Bồ tát Quán Tự Tại cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm trong phẩm
“Phổ Môn” vậy.

Tóm lại, an lạc thay khi sống trong pháp vị, thật sự buông bỏ những lo âu phiền muộn, mưa pháp cam lồ liên tục đã nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng. Phước báo thay tứ chúng đồng tu, tất cả đều hoan hỷ vì thấm nhuần được sự lợi ích của
"Diệu đạo", khi áp dụng Phật Pháp vi diệu vào cuộc sống tỉnh tu hằng ngày ở nơi trụ xứ. Mưa pháp làm hạt giống Phật tánh ở nơi mỗi con người, từ lâu bị chôn vùi khô cạn, nay như được nẩy mầm, đâm chồi kết lộc.
“Qua lẽ tuần hoàn của vũ trụ, sự vật có trải qua sự nghiêm khắc của mùa đông, khi sức sống trỗi dậy, trăm hoa đua nở, cây cỏ xanh tươi, mới thấy ánh xuân đầm ấm là quí. Tất cả hiện tượng tốt xấu của xã hội đều do tâm chúng ta sáng tạo. Chúng ta phải có tinh thần tự chủ. Tự thân chúng ta, luôn luôn phải thúc liễm, phải tỉnh thức, phải trong sạch hóa tâm hồn, hành động, nói năng, suy nghĩ, mới có thể đem lại lợi ích cho tha nhân, cho quốc gia, cho cộng đồng và cho nhân loại”.(Tiếng vọng thời gian HT Thích Tâm Châu)

Đối trước mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, con xin chắp tay đảnh lễ, chí thành cầu khẩn các Ngài trụ thế lâu dài và hãy vì chúng sanh đau khổ mê mờ mà đốt lên ngọn đuốc chánh pháp. []

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
TKN Thích Nữ Chân Liễu