Friday, January 5, 2018

***Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí


Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí

TKN Thích Nữ Chân Liễu

Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.

Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:

“Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.

Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.

* Lục độ ba la mật gồm có:
-       Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
-       Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-       Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-       Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-       Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-       Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.

*Bát chánh đạo gồm có:
-   Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
-   Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
-   Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
-   Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
-   Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
-   Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
-   Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
-   Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.

Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
                                            
Cúng dường Ðức Pht Thích Ca:

Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.

      Tham ái sanh ưu tư                 
      Tham ái sanh sợ hãi                
      Ai giải thoát tham ái                  
      Không ưu, không sợ hãi.
            (Kinh Pháp Cú)    

      Tâm từ thắng nóng giận
      Tâm thiện thắng ác hung
      Tâm thí thắng tham lam
      Tâm chơn thắng dối trá.
            (Kinh Pháp Cú)

Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.

Cúng dường Đức Pht Ða Bảo:

Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát  nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.

Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng. 

Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.

Hiểu rõ chân lý nhân quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự tại.                
      
                                    Ða dục vi khổ
                                    Sanh tử bì lao
                                    Tùng tham dục khởi
                                    Thiểu dục vô vi
                                    Thân tâm tự tại.      
                                                (Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
                 
Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.

Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.

. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích:            Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.

Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:

Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.

Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []                                                                                         
                                                                                 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật                   
TKN Thích Nữ Chân Liễu
(Toronto, Canada)



CỐT LÕI CỦA ĐẠO PHẬT LÀ GÌ?
Lê Sĩ Minh Tùng



Cốt lõi của giáo lý Phật Đà trong suốt 49 năm hoằng pháp của Ngài là giúp chúng sinh thoát khổ và giải thoát mà không cần trông đợi vào bất cứ tha lực nào bởi vì Phật giáo là tín ngưỡng tự lực.
Nhưng tại sao con người phải khổ?

Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát. Ta thì lo ích kỷ cho riêng ta, người thì lo ích kỷ cho người vì thế con người bắt đầu tranh chấp, đố kỵ, hơn thua, lo bảo vệ Cái Tôi và những cái thuộc về Tôi. Cảm tính về Cái Tôi và Cái Của Tôi được xem là sự bám víu, chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần và nỗi khổ niềm đau cũng bắt đầu phát sinh từ đó.
Ngã chấp phát triển như thế nào?

Một đứa bé mới sinh ra đời chưa có cảm tính về một “Cái Tôi” riêng biệt trong tâm thức của nó. Dần theo môi trường sống lớn lên, đứa bé được cha mẹ, những người thân chung quanh nhét vào trong tâm thức những ý niệm về Cái Của Tôi. Đây là cha mẹ của nó, thức ăn của nó, cái giường ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng của nó, cái chén cái ly này là của nó, anh chị em của nó….Vì là của nó nên nó phải bảo vệ giữ gìn Cái Của Nó từ đó tâm thức bắt đầu phát triển những ý niệm ích kỷ hẹp hòi. Cái Tôi ấy mỗi ngày tiếp tục biến đổi và sinh trưởng dưới tác động của những điều mà nó học hỏi mới và các kinh nghiệm mới trong cuộc sống và trong tâm thức của nó lúc nào cũng có Cái Tôi mới khác hẳn với Cái Tôi trước đó.

Nói chung Cái Tôi thay đổi từ lúc còn bé thơ, dần đến trưởng thành và sau cùng là đến lúc mạng chung. Mỗi thời điểm trong cuộc đời có một Cái Tôi khác biệt, nào là Cái Tôi lúc còn đi học, Cái Tôi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, Cái Tôi của những cặp nhân tình, Cái Tôi của những đấng cha mẹ, Cái Tôi của những người lớn tuổi và cuối cùng Cái Tôi của người sắp hấp hối. Nói chung, Cái Tôi đang tuần tự biến dạng trong kiếp sống này qua những thể dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi già nua và sau cùng nhờ vào cái chết để trở thành Cái Tôi của một đứa bé khác dưới một cái tên gọi khác, vào trong một gia đình khác, một dòng họ khác, một quê hương khác, một tôn giáo khác và dĩ nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh nghiệm, ký ức, kiến thức từ kiếp trước dưới hình thức những vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó.
Con người cố bám víu vào Cái Tôi và Cái Của Tôi dưới đủ mọi hình thức và họ quan niệm rằng Cái Tôi chính là sự sống trong cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.

Thí dụ nếu xem thân xác này là Của Tôi thì chắc chắn chúng ta phải trau chuốt, chưng diện, phấn son, trang sức lấp lánh, áo lụa quần là, tạo công danh phú quý cho Cái Tôi hưởng, mua nhà to đắt tiền cho Cái Tôi ở, mua cao lương mỹ vị cho Cái Tôi dùng, tranh công đoạt chức cho Cái Tôi hãnh diện. Xa hơn nữa có người cắt bớt chỗ này, độn thêm chỗ kia cho cái thân thể Của Tôi thêm hấp dẫn, rực rỡ huy hoàng…Nhưng thân này thực sự nó là Của Ta chăng? Nếu nó là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì tại sao Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát bụi?

Tệ hại hơn nữa, nếu bây giờ nghĩ rằng tâm thức là Của Ta thì sự ích kỷ sẽ bùng lên, hận thù dấy khởi, tự ái dày vò, tham lam xúi dục, trong tâm dấy lên bao nhiêu hy vọng, ước mơ, mưu mô, tiếc nuối, thương yêu, ghét bỏ…từ đó phát sinh biết bao ảo giác và tưởng tượng không thiết thực và đây chính là đầu dây mối nhợ cho biết bao sự lo âu, phiền muộn và tranh chấp trong cuộc đời. Có chiến tranh giết chóc cũng bởi vì con người luôn bảo vệ những quan niệm rằng đây là nhà Của Tôi, gia đình Của Tôi, đất nước Của Tôi, quê hương Của Tôi, chùa Của Tôi, tôn giáo Của tôi, giáo hội Của Tôi…Bạn có biết trước khi đến thế giới này, kiếp trước bạn ở đâu không? Quê hương nào thực sự là của bạn? Quê hương bây giờ, quê hương trong kiếp quá khứ hay quê hương trong những kiếp tương lai? Cái nhà nào là cái nhà Của Ta? Nếu thật sự là Của Ta thì tại sao bạn không đem nó theo khi bạn chết mà phải bỏ lại hết cho thế gian? Có phải đó là con cái Của Ta, vợ chồng Của Ta, cha mẹ Của Ta chăng? Một khi ý niệm Của Ta tiềm ẩn trong tâm thức thì những khuynh hướng như ích kỷ, làm chủ, độc tài, độc đoán sẽ phát hiện khiến cho cuộc sống trong gia đình thiếu thăng bằng, mất hạnh phúc. Bạn có hài lòng (hạnh phúc) khi người khác làm chủ (control) bạn không? Có phải tờ giấy hôn thú bảo đảm bạn làm chủ cuộc đời của người hôn phối chăng? Nếu thế thì tại sao hằng ngày có biết bao cặp vợ chồng dắt nhau ra tòa ly dị? Nó là con cái Của Ta thì tại sao chúng nó không nghe lời Của Ta?

Dựa theo tinh thần Phật giáo, không có gì trên thế gian là Cái Tôi hay Cái Của Tôi cả. Tất cả chỉ là do nhân duyên tác tạo. Vợ chồng là do duyên nợ mà thành. Hai người đã có nợ nần từ tiền kiếp, bây giờ có đủ duyên gặp lại nhau thì kết thành vợ chồng trở lại để trả hết những nợ nần kiếp trước và dĩ nhiên tiếp tục tái tạo nợ nần cho mai sau. Nếu không có nợ mà chỉ có duyên thì họ chỉ yêu nhau qua một giai đoạn rồi gặp trắc trở và cuối cùng cũng phải chia tay. Tình yêu bên ngoài có thể che phủ bằng những bông hoa tươi thắm, nhưng thật ra bên trong nó được che lấp bằng những bản chất ích kỷ và hưởng thụ của con người. Chính bản năng hưởng thụ đã thúc đẩy trai gái tìm đến với nhau và cũng chính cái bản năng ích kỷ đó (Cái Của Tôi) đã thúc đây họ làm khổ cho nhau. Do đó nếu con người biết đem tình thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng và vị tha vào trong cuộc sống thì tình yêu đó sẽ không còn đậm màu sắc ảm đạm của bản năng ích kỷ.

Thông thường, do lòng đố kỵ và ích kỷ, chúng ta ít chịu chấp nhận cái hay của người khác vì người khác nổi bật sẽ làm chúng ta bị lu mờ. Chúng ta thờ ơ trước những ưu điểm của kẻ khác và vui mừng khi tìm thấy khuyết điểm của người vì người lu mờ thì ta sẽ nổi bật. Do tâm vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức là khen mình, chê người. Đây là cội nguồn phát sinh ra phiền não và tạo nghiệp cũng tại vì cái ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính vị kỷ nầy bằng tinh thần vị tha thì cuộc sống sẽ an vui tự tại. Thấy người giỏi thì khen, thấy người giàu thì mừng, thấy người khổ thì giúp. Thực hành như vậy thì phiền não không còn và những nguyên nhân gây ra phiền não cũng chấm dứt.

Thêm nữa, trong đời quá khứ nếu kết duyên với con cái thì đời nầy chúng ta gặp lại chúng. Nếu là phước duyên thì chúng đến để báo đền ơn nghĩa ngày xưa. Chúng quan tâm, lo lắng và giúp đỡ mọi chuyện cho cha mẹ. Chúng cố gắng học hành, trở thành người tốt để đem niềm vui cho cha mẹ. Còn nếu là ác duyên có nghĩa là chúng đến để đòi nợ, gây khổ cho cha mẹ. Cha đau mẹ yếu chúng chả cần quan tâm. Chúng chỉ thích ăn chơi trác táng, phung phí tiền bạc, tương lai đen tối và gây phiền não cho gia đình. Thay vì cố gắng tạo dựng một tương lai tốt đep cho cuộc đời của mình thì trong tâm chúng chỉ để ý đến cái gia sản to lớn của cha mẹ mà thôi. Thế thì cái gì là con cái Của Ta?

Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn trong tâm hồn nhất thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm đau theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải khổ?
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.

Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Tôi” và những cái gì gọi là “Cái Của Tôi”. Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng Đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Tôi mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân tạo từ lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn từ lo nọ đến áy náy buồn phiền kia.

Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vô minh, sai khiến con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống là có khổ.

Nói chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.

Thêm nữa, dựa theo thuyết “Nghiệp cảm duyên khởi” của đạo Phật thì tất cả những chủng tử thiện, ác chẳng những từ đời này mà còn bao nhiêu đời quá khứ phát xuất từ ý nghĩ, lời nói và hành động của con người đều được lưu giữ trong A lại da thức (nhân). Khi hội đủ duyên thì chủng tử thiện, ác đó sẽ biến thành quả và đây là những kết quả khổ, vui mà con người thọ báo trong đời này và cho những đời kế tiếp. Thí dụ mảnh vườn phía sau nhà, chúng ta gieo nhiều loại hạt giống (chủng tử) khác nhau (nhân). Vì chúng nằm dười lòng đất nên mắt thường không thấy được cho nên có lúc chúng ta nghĩ rằng những hạt giống đó không còn hay đã chết. Sau nhiều trận mưa rào và trời ấm áp (duyên) thì chúng bắt đầu nẩy mầm (quả). Điều quan trọng nhất là giống nào nẩy mầm theo giống nấy, không bao giờ lộn lạo. Thí dụ giống cây cải thì sinh ra cây cải, giống ớt thì sinh ra cây ớt…Tuyệt đối không bao giờ có chuyện trồng ngò mà thành cây ớt được nghĩa là nhân thiện thì thọ lãnh quả lành, ngược lại nhân ác thì chắc chắn sẽ thọ lãnh quã dữ. Vì thế, nếu con người biết huân tập nhiều hạt giống thiện thì những chủng tử lành đó có công năng dẫn dắt họ tái sinh vào những cảnh giới an lành để tiếp tục hưởng những quả báo tốt đẹp.

Ngược lại thì phải thọ báo vào cảnh giới khổ não, đau thương. Nghiệp là hành động lập đi lập lại nhiều lần rồi thành thói quen tức là tập khí. Chính cái thói quen, hay tập khí này có sức mạnh phi thường mà Phật giáo gọi là nghiệp lực để tùy duyên, chiêu cảm đến môi trường thích hợp mà thọ sinh, nên gọi là nghiệp cảm. Tuy nhiên, đạo Phật là đạo chuyển nghiệp nghĩa là trong quá khứ cho dù con người vì sống trong vô minh bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân). Nhưng nếu bây giờ biết thức tĩnh, dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác nghiệp, tạo nhiều thiện nghiệp thì những ác nhân đó không có cơ hội tác tạo với ác nghiệp để gây ra cảnh khổ cho mình. Nhân (Cause) mà không có duyên (Conditions) thì tuyệt đối không bao giờ thành quả (Effect). Cũng như gạo (nhân) mà không có nước, không nấu (duyên) thì không bao giờ thành cơm được (quả).

Ngày nay con người thay vì cố tìm cách thay đổi cuộc sống cho phù hợp với đạo đức nhân bản thì họ nhắm mắt đi tìm phước báo. Giáo lý của Đức Phật rất ngắn gọn, đó là nên tránh xa các việc ác và cố gắng làm các việc lành. Khi đã thành tựu rồi thì cố gắng giữ gìn tâm ý cho được thanh tịnh là có giải thoát. Nhưng đa số người tu Phật cừ lờ đi, tuy họ cũng làm việc thiện mà không muốn buông bỏ những thói quen xấu của mình. Do đó đi tìm phước báo mà không buông bỏ tánh ác thì không bao giờ có. Tất cả hành vi thiện, ác đều do từ thân, khẩu, ý mà ra cho nên đó là nơi mà bạn phải nhìn lại mình mà nhà Phật gọi là “Phản quang tự kỷ” nghĩa là soi xét lại mình, quán chiếu lại mình, từ thân thể cho tới nội tâm, thấy rõ thân thể, nội tâm như thế nào. Trong khi đó “Hồi quang phản chiếu” có tánh cách đặc biệt dành cho bậc thượng cơ, nhất là những vị tu thiền trong Phật giáo.

Nhìn xem hành vi của bạn có sai trái hay không? Chúng ta hằng ngày cố gắng cực nhọc lo lau sạch nhà cửa, xe cộ, chén bát nhưng lại quên không nhìn lại sự dơ bẩn trong tâm của mình. Bởi vì không thấy chính mình, con người mới có thể làm đủ điều xấu. Khi trong tâm vừa thoáng lên một ý nghĩ xấu, họ nhìn chung quanh xem có ai nhìn thấy ý đồ đó không rồi họ mới làm. Nhưng họ quên rằng có người biết và người đó không ai khác là chính mình (lương tâm). Nếu biết nhìn vào chính mình thì bạn sẽ biết phân biệt thiện, ác rất rõ ràng. Nếu bạn sắp làm một việc ác, bạn nhìn vào chính mình đúng lúc thì bạn có thể dừng lại. Thông thường vì nhìn ở bên ngoài nên tâm con người chứa đầy tham vọng và ảo tưởng, nhưng bây giờ nếu nhìn vào bên trong, nhìn lại chính mình thì bạn sẽ thấy rất rõ điều thiện và điều ác. Thấy điều thiện nhắc nhở chúng ta cố gắng làm y như vậy. Buông bỏ điều ác, thực hành điều thiện là có phước báo ngay.

Đức Phật dạy rằng: “ Chúng sinh nếu muốn vun bồi phước báo của mình cho được viên mãn thì hãy lánh xa điều ác” nghĩa là nếu mình không làm điều ác thì tất cả việc làm bây giờ đều trở thành thiện hết mà không cần phân biệt thiện, ác gì cả. Ngược lại tuy có làm vài điều thiện, nhưng vẫn còn làm điều ác thì vẫn còn lo lắng, ưu bi, khổ não triền miên.

Do đó, nếu tâm của chúng ta thiện lành và đức hạnh thì đây là hạnh phúc trong đời này vậy. Đối với con người hạnh phúc là diễn tiến theo ý muốn của họ, là khi mà mọi người trên thế giới chỉ nói những lời tốt đẹp đối với họ, nhưng nếu thực sự đây là hạnh phúc mà bạn mong muốn thì chính bạn đã xây lâu đài trên cát. Không những người ngoài làm chúng ta bực bội mà ngay cả những người thân yêu quanh chúng ta đôi khi cũng làm cho chúng ta buồn phiền, ưu bi, khổ não. Thậm chí, chính chúng ta cũng làm cho chúng ta buồn bực, không vui. Vì vậy, nếu bạn biết nhìn lại chính mình để buông bỏ điều ác thì chính mình sẽ có hạnh phúc bởi vì tâm lành thì không có lo âu, phiền não. Khi tâm thanh thản, bạn nở một nụ cười. Ngược lại tâm rối ren, lo lắng thì lòng bực dọc, mặt khô cằn, hung hăng, tức giận.

Tôn chỉ của đạo Phật là giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau để có cuộc sống an vui tự tại mà muốn đạt đến cứu cánh này thì chúng sinh phải biết buông xả. Vì thế trong Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm gọn cốt lõi của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn cho những ai muốn đi trên con đường giải thoát giác ngộ, đó là”Không được bám víu vào bất cứ gì cả” mà Kinh Kim Cang gọi là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là một khi mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà tâm không bám víu, chấp thủ.

Cùng ý niệm đó, trong kinh Bahiya Sutta, Đức Phật giảng giải cho một đệ tử tên là Bahiya về sự bám víu, chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần như sau:
"Này Bahiya,
Khi nhìn thấy một hình tướng, thì đấy chỉ là cách trông thấy.
Khi nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ là cách nghe thấy.
Khi ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là cách ngửi thấy.
Khi nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách nếm thấy.
Khi xảy ra một sự cảm nhận trên thân xác, thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.
Và mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì đấy cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra trong tâm thức.
Đấy là cách không có cái ngã.
Đấy là sự chấm dứt của dukkha (khổ đau). Đấy là nibbâna (niết-bàn).
Bài kinh trên tuy ngắn gọn, nhưng rất quan trọng. Vậy hãy nghiệm xem

Đức Phật muốn dạy chúng ta những gì?
1)Khi mắt nhìn thấy hình tướng nào đó thì chỉ cần biết là mắt thấy hình tướng là đủ, đừng cho rằng mắt Ta thấy hình tướng đó thì sẽ vắng bóng Cái Ta và Cái Của Ta trong tâm thức. Tại sao? Thí dụ nếu mắt thấy chiếc xe thì chỉ là chiếc xe thôi cũng như mắt thấy trăm ngàn vật thể khác cho nên cái thấy đó không có dính mắc, cái thấy dững dưng không có gì quan trọng. Đó là thấy mà cũng như không thấy nên tâm không giao động. Ngược lại nếu cho là mắt Ta thấy chiếc xe thì cái thấy bây giờ là mình thấy, mình đem hình bóng chiếc xe đó vào tâm mình rồi ái dục phát sinh, lòng tham đắm nỗi dậy và nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Nếu cố gắng làm đêm làm ngày để có tiền mua chiếc xe giống vậy thì quá khổ, còn muốn mà không được thì quá khổ tâm.
2)Khi tai nghe tiếng nhạc thì biết là tai đang nghe nhạc. Đừng cộng thêm ngã chấp vào mà nghĩ rằng tai Ta đang nghe nhạc.
3)Khi mũi ngửi mùi hương thì biết mũi đang ngửi mùi hương thế thôi.
4)Khi lưỡi nếm vị ngọt thì biết lưỡi đang nếm vị ngọt là đủ.
5)Khi thân đụng phải vật cứng hay mềm thì biết thân đang đụng vật cứng hay mềm chớ đừng cho rằng thân Ta đang đụng vật cứng hay mềm.
6)Cuối cùng khi có một tư tưởng hiện ra trong tâm thức thì biết có tư tưởng đang hiện ra trong tâm thức là đủ.

Thí dụ khi muốn làm một việc (thiện) gì cho người khác thì chỉ lo làm cho hoàn tất, tạo niềm vui cho kẻ khác là đủ thì tâm tự tại. Ngược lại, nếu cho rằng chính Ta làm việc đó thì trong tâm sẽ đặt ra vô số điều kiện tức là tâm còn dính mắc. Nào là muốn người trả ơn, nào là muốn người khác khen tặng, chụp hình, đăng báo thì phiền não tức thì phát sinh, không còn tự tại. Đây là sự khác biệt giữa việc làm vô ngã vị tha (vì người mà làm) và bản ngã tư lợi (mua bán, kinh doanh).

Nếu con người biết tư duy quán chiếu và thực hành đúng những lời dạy của Đức Phật ở trên thì trong họ cái tự Ngã dần dần bị tiêu diệt và những cảm tính về “Cái Tôi” và “Cái Của Tôi” cũng không còn. Đây là con đường thoát khổ, giải thoát tự tại Niết bàn tức là:

“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” rồi vậy.
Vì vậy nếu con người sống trong chánh niệm tĩnh thức, không chạy theo sự quyến rũ của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì những nguồn gốc phát sinh ra tham lam, ái dục, bám níu hay những cảm tính về “Cái Tôi” và “Cái Của Tôi” sẽ biến mất và đúng vào thời điểm đó không còn hình bóng của khổ đau và dĩ nhiên Niết bàn thanh tịnh sẽ hiện bày.
Đắc đạo rồi có còn đau khổ không?
Trở lại với kinh Na Tiên Tỳ Kheo:
Vua Di Lan Đà hỏi:
-- Bạch Ðại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau, nhưng trong đời nầy có còn thấy mình đau khổ nữa không?
-- Tâu Ðại vương, tùy từng việc một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc không.
-- Có việc có, có việc không, là như thế nào?
-- Ðau khổ của thân thì còn, đau khổ của tâm thì hết.
-- Vì sao vậy?
-- Sở dĩ thân còn đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ nầy là thân, hễ nhân duyên ấy còn tồn tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là lòng tham dục, một khi tâm ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham dục không còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.
-- Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà không khiến thân lìa được khổ đau, như thế là chưa chứng đắc Niết Bàn chăng? Ðắc đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm sao gọi là đắc đạo? Còn nán ở lại trần thế làm gì để còn chịu khổ đau?
-- Tâu Ðại vương, bậc đắc đạo không chuộng mà cũng không ghét, không tìm cầu mà cũng không xua đuổi. Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy, không hấp tấp, không vội vả. Ví như chuối non không cần phải vú ép. Lại cũng không cần chờ chuối chín để chực hái. Vì vậy nên đức Xá Lợi Phất xưa có dạy rằng:
Không cần tịch diệt,
Cũng không cần trường sanh.
Chưa phải lúc thì ở,
Thời đến thì ra đi.
Vua nói:
-- Hay thay! Hay thay!
Thế thì Niết Bàn và thế gian hay Phật và chúng sinh là một hay hai?
Phật và ta không hai, không khác, không thể tìm Phật ngoài tấm thân này được. Khi thức tĩnh giác ngộ là Phật nghĩa là sống trong thanh tịnh tự tại Niết Bàn, ngược lại sống trong mê mờ bất giác thì vĩnh viễn là chúng sinh thế thôi. Thế thì Thái tử Tất Đạt Đa với Đức Phật Thích Ca là một hay hai? Nếu là một (tương đồng) thì tại sao không ai bái lạy Thái tử mà chỉ bái lạy Đức Phật? Còn nếu là hai (dị biệt) thì không có Thái tử, lấy đâu ra có Đức Phật? Cũng như khúc gỗ và tượng Phật là một hay hai? Nếu là một (tương đồng) thì đâu có ai lạy khúc gỗ bao giờ? Còn nếu là hai (dị biệt) thì nếu không có khúc gỗ, làm sao đục thành tượng Phật được? Cũng như chính bạn vậy.
Bạn ngay nay và mấy chục năm trước là một hay hai? Nếu là một (tương đồng) thì bạn ngày trước bãnh trai, trẻ trung, hào hoa phong nhã còn bạn ngày nay lưng mõi, gối mòn, da nhăng má hóp thì làm sao là một được? Còn nếu là hai (dị biệt) thì bạn muôn đời vẫn là bạn mà, cũng ông A, bà B từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời chớ đâu phải người nào khác. Đây chính là nguyên lý Bất Nhị nói lên cái biết, cái nghiệm chứng bằng thực hành, bằng thiền định chớ không thể bằng luận giải hay bằng ngôn ngữ của con người. Vậy biết cái gì? Cái biết rốt ráo ở đây chính là sự tương quan giữa “Tướng” và “Tánh” hay cả hai không phải tương đồng và cũng không phải dị biệt. Tuy tướng trạng của con người, của thế giới nhân sinh vũ trụ thay đổi dựa theo thuyết “Duyên Khởi” nhưng thể Tánh của nó lúc nào cũng vẫn thế. Ví như Tướng của nước là những làn sóng nhấp nhô trên biển, nhưng nước chính là thể Tánh của sóng cho nên không có làn sóng nào ngoài nước mà có được. Nói cách khác “Vô Ngã” là duyên sinh biểu thị ở mặt hiện tượng và duyên sinh là vô ngã biểu thị ở mặt thể tánh.

Chân lý Vô Ngã, Vô Thường và Duyên Khởi là xương sống của đạo Phật mà không có một tôn giáo nào trên thế giới từ ngàn xưa đến ngày nay có thể so sánh được. Đây chính là điểm đặc thù tại sao Phật giáo là trí tuệ, là con đường giải thoát mà không có tín ngưỡng. Một khi con người đạt đến trình độ không còn phân biệt chủ thể và đối tượng, không còn ý thức với vô thức, không còn có hữu hay vô, không còn “sắc không” , “Tướng” “Tánh” đối đãi thì họ đạt đến trạng thái Chơn Không hay Tánh Không tối thượng tức là Niết Bàn bởi vì đối với Phật giáo tất cả những ý niệm chủ khách, sắc không, niết bàn sinh tử, thường đoạn, nhất nguyên nhị nguyên…chỉ là những vọng chấp đối đãi trong khi Niết Bàn chính là trạng thái mà trong đó mọi tư tưởng, mọi ý niệm về chấp Ngã (Cái Tôi) và Ngã Sở (Cái Của Tôi) đều tịch diệt.

Sự vắng bóng “Cái Tôi” và “Cái Của Tôi” nghĩa là hành giả đã diệt xong Ngã chấp không có nghĩa là người đó không còn cảm biết những điều trên thế gian nầy nữa để hóa thành một pho tượng đá vô tri vô cảm mà hành giả thực sự phát triển một sự linh hoạt tột đỉnh. Tại sao? Bởi vì sự chấm dứt của dục lạc, của sự thèm muốn thường tình mà chính là cội nguồn phát sinh ra biết bao nỗi khổ cho con người về sau sẽ đưa hành giả đến một niềm hạnh phúc lớn nhất trong tất cả các niềm hạnh phúc mà nhà Phật gọi là thanh tịnh an lạc Niết Bàn. Thông thường, những lạc thú của con người chỉ là những hạnh phúc phù du, giả tạm, lừa phỉnh chẳng khác gì miếng mồi móc vào một lưỡi câu. Khi đã nuốt miếng mồi mà mình đang thèm muốn thì tức thì lưỡi câu kia cũng sẽ móc vào cổ họng vì thế không có hạnh phúc nào trên thế gian của con người bình thường mà không ngầm chứa những nỗi khổ niềm đau về sau. Ngược lại Niết Bàn, tạm gọi là hạnh phúc tối thượng, là sự an lạc thanh tịnh trong tâm hồn mà trong đó không còn hình bóng của tham, sân, si cho nên họ không còn tranh chấp, đố kỵ cho những ảo ảnh phù du, giả tạm của thế gian.

Những căn bản về bản ngã tức là “Cái Tôi” đã phá thì những cảm tính về “Cái Của Tôi” cũng bị diệt cho nên tâm hồn mới thật sự thanh tịnh, thanh thoát, nhẹ nhàng được. Có người thắc mắc rằng nều không còn Cái Tôi nữa thì Tôi là ai? Con người thật sự chỉ là sự kết tạo của Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) mà mỗi uẩn không có thật thể do vậy toàn bộ ngũ uẩn không có tự thể cho nên nhà Phật gọi là Không. Cái “có” mà chúng ta gọi là “ai” chỉ là cái có tạm bợ, là giả danh mà con người đặt tên để gọi để có thể phân biệt người này với người kia trong xã hội thế thôi, khi nhân duyên kết (sinh). Đến khi nhân duyên ly tán, ngũ uẩn bắt đầu tan rã (hoại diệt) thì con người chết vì thế Tâm Kinh mới có câu: “Ngũ uẩn giai không” là vậy. Nên nhớ nhân duyên sinh diệt trong ta từng sát na cho nên con người luôn thay đổi từ tinh thần (tâm lý) cho tới tấm thân (sinh lý). Tư tưởng sau thay thế tư tưởng trước, tế bào mới thay thế tế bào cũ cho nên trong ta luôn biến chuyển vận hành. Thế thì cái gì là “Ta”? Cái mà con người gọi là “Ta” chỉ là cái tên để gọi (giả danh) chớ không có cái gì thật sự là Cái Ta cả. Thí dụ ngày xưa ở Việt Nam thì gọi là ông Hùng bây giờ sang định cư ở Mỹ thì đổi sang thành ông John thế thì ông Hùng hay ông John thật sự tên nào là Ta?
Vậy thế nào là Niết Bàn?

Vào thời Đức Phật còn tại thế có một ẩn sĩ Bà-la-môn khi gặp ngài Xá Lợi Phất liền hỏi :
- Niết bàn, Niết bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin cho biết đó là cái gì vậy?
Tôn giả Xá Lợi Phất bèn trả lời :
- Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết bàn.

Sau cùng, Phật giáo nhập thế là phải từ cái thế gian đầy ô nhiễm này mà tự mình thanh lọc thân tâm, quán biết đời là giả tạm, cố gắng buông bỏ mỗi ngày một chút thì hoa sen nơi chính mình sẽ vươn lên và nở rộ. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn, sắp vọt ra khỏi bùn, vươn lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang theo bên trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp, màu sắc rực rỡ và hương thắm dịu dàng.

Lê Sỹ Minh Tùng