XUÂN NAY ĐÃ KHÁC XƯA
tkn Thích Nữ Chân Liễu
XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI XUÂN BẤT TẬN.
TÂM
AN, MÃI MÃI VẪN CÒN XUÂN.
Trong
thời tiết của mùa xuân nắng ấm, trên mãnh đất an bình hiền hòa, khi
nhắc đến xuân thì thường là niềm vui, là hạnh phúc, là cảnh đẹp rực rỡ, hay những điều mới mẻ, cuộc sống tiến bộ lạc
quan, cầu mong thế giới thanh bình thịnh vượng…Một ngày qua, một tháng cũ mất,
một năm lặng lẽ trôi, một đời người, một con đường, một chân lý sống, suy tư
cho cùng tận khi giật mình nhìn mái tóc đã điểm sương.
Ai
là người hưởng được vạn sự như ý? Bao nhiêu người phải chấp nhận những việc bất
như ý. Hồi tưởng lại thời gian xưa và nay, để không quên như một điệp khúc của
bản nhạc vui buồn, hay dở. Cũng vậy tâm trạng của người đang tu tâm sửa tánh, nên
dành một chút thời gian trước khi đón mừng mùa xuân mới, là cách nhìn lại chính
mình trong quá khứ và hiện tại xem “Ý xuân nay có khác xưa không”?
Con người cần có can đảm chịu trách nhiệm mọi hành
động của mình, không thể đổ thừa hoàn cảnh nào đó chi phối mà không thay đổi
được, nhưng nhất thiết cũng không phải ngẫu nhiên vô cớ hay mà có. Phải thấy rõ
được niềm hạnh phúc, nỗi bất hạnh, sự thành công, thất bại, cái thăng trầm
vinh, nhục trong hiện tại là do tâm chúng ta có chủ ý.
Phật
pháp là không của riêng ai, những điều chân chánh đã có sẳn trong chốn dân
gian. Nhân quả và vô thường là sự thật trong vũ trụ. Phật là bậc Thầy khai ngộ
và chỉ dạy cho chúng sanh thức tỉnh dùng trí tuệ để nhận biết rõ ràng. Khi con
người còn tham sân si thì không có trí tuệ, không hiểu được giá trị của Phật
Pháp, không áp dụng trong cuộc sống, thì có chiến tranh, có hơn thua tranh danh
đoạt lợi, có đau khổ, có ly tán. Chẳng những thế con người thụ động thì sống với
những ước mơ hão huyền
xa vời chấp nhận trong kiếp Tái sinh - luân hồi hay cảnh giới cực lạc xa cách
ngàn trùng.
Trong
Kinh Nhật Tụng, thường có câu thệ rằng:
Phật
chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo
cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới
đế châu ví đạo tràng
Mười
phương chư Phật hào quang sáng ngời
Trước
bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi
đầu xin thệ nguyện qui y
Phật chúng sanh tánh
thường rỗng lặng
Phật và chúng sanh bản tánh như nhau là có nguồn gốc sâu xa của nó từ quá khứ, là chốn an bình tịnh lạc, có những mùa xuân bất tận, không có sự đi và đến mà mãi mãi chỉ là xuân, không có tranh chấp, không có đau khổ. “Phật là từ chúng sanh giác ngộ mà chứng quả, Phật cũng từ phiền não mà chứng bồ đề”.
Phật và chúng sanh bản tánh như nhau là có nguồn gốc sâu xa của nó từ quá khứ, là chốn an bình tịnh lạc, có những mùa xuân bất tận, không có sự đi và đến mà mãi mãi chỉ là xuân, không có tranh chấp, không có đau khổ. “Phật là từ chúng sanh giác ngộ mà chứng quả, Phật cũng từ phiền não mà chứng bồ đề”.
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Là sự suy tư của những tâm thanh tịnh, đạo là con đường mà hành giả chân chánh không bị danh lợi cám dỗ, trạng thái tâm lặng lẽ không dính mắc, không chống trái với nhau. Nhân cách của các vị thiện hữu tri thức cảm thông nhau, cho dù thuận hạnh nghịch hạnh vẫn có thể hoằng pháp ở mọi hoàn cảnh, mà không đánh mất giá trị của đạo hạnh. Đây là việc bất khả tư nghì của những bậc bồ tát có đủ từ bi và trí tuệ.
Là sự suy tư của những tâm thanh tịnh, đạo là con đường mà hành giả chân chánh không bị danh lợi cám dỗ, trạng thái tâm lặng lẽ không dính mắc, không chống trái với nhau. Nhân cách của các vị thiện hữu tri thức cảm thông nhau, cho dù thuận hạnh nghịch hạnh vẫn có thể hoằng pháp ở mọi hoàn cảnh, mà không đánh mất giá trị của đạo hạnh. Đây là việc bất khả tư nghì của những bậc bồ tát có đủ từ bi và trí tuệ.
Lưới đế châu ví đạo
tràng.
Ngài Thần Tú ví tâm như gương lấm bụi phải lau chùi hằng ngày, Ngài Huệ Năng thì ví tâm xưa nay không một vật có gì phải lau chùi. Trong đời sống tùy quan niệm và hoàn cảnh, người tu đừng chấp chặt hay đòi hỏi nhiều thì ở đâu cũng là đạo tràng. Lời dạy của chư Phật chư tổ cũng là phương tiện để tu học, pháp môn nào cũng là kiến thức từ bên ngoài cần cho việc tu học mà thôi, đừng rơi vào sự sai lầm của bản ngã, gây chướng ngại cho con đường giải thoát. Sự quan trọng nhất là chánh kiến và chánh tín, tránh khỏi mê lầm, tìm được chân lý thật sự đưa con người đến hạnh phúc, đó mới là cứu cánh và vô cùng trân quí hơn cả trân châu ngọc báu.
Ngài Thần Tú ví tâm như gương lấm bụi phải lau chùi hằng ngày, Ngài Huệ Năng thì ví tâm xưa nay không một vật có gì phải lau chùi. Trong đời sống tùy quan niệm và hoàn cảnh, người tu đừng chấp chặt hay đòi hỏi nhiều thì ở đâu cũng là đạo tràng. Lời dạy của chư Phật chư tổ cũng là phương tiện để tu học, pháp môn nào cũng là kiến thức từ bên ngoài cần cho việc tu học mà thôi, đừng rơi vào sự sai lầm của bản ngã, gây chướng ngại cho con đường giải thoát. Sự quan trọng nhất là chánh kiến và chánh tín, tránh khỏi mê lầm, tìm được chân lý thật sự đưa con người đến hạnh phúc, đó mới là cứu cánh và vô cùng trân quí hơn cả trân châu ngọc báu.
Mười phương chư Phật
hào quang sáng ngời.
Phước đức giúp người tu dễ vượt qua khó khăn của ma chướng, ví như người khách bộ hành phải đi qua những đoạn đường gian nan đầy vực sâu và thử thách. Nhưng khi có được những gì mong cầu, đi đến đâu làm việc gì cũng chỉ nghĩ lợi ích chúng sanh. Tánh giác có sẳn nhưng vì nghiệp thiện ác ở sáu cõi làm cho chúng ta quên đường về. Từ vô thủy chúng sanh đã là Phật, tự tánh vốn thanh tịnh luôn luôn hiện hữu. Khi ánh sáng trí tuệ như ngọn đèn được thắp sáng, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp tự tan biến mất. Hiểu được và hành được Phật Pháp bằng thân giáo và khẩu giáo là công đức phước đức, lợi lạc cho mình và cho những người hữu duyên, thì hào quang cũng không khác gì chư Phật mười phương.
Phước đức giúp người tu dễ vượt qua khó khăn của ma chướng, ví như người khách bộ hành phải đi qua những đoạn đường gian nan đầy vực sâu và thử thách. Nhưng khi có được những gì mong cầu, đi đến đâu làm việc gì cũng chỉ nghĩ lợi ích chúng sanh. Tánh giác có sẳn nhưng vì nghiệp thiện ác ở sáu cõi làm cho chúng ta quên đường về. Từ vô thủy chúng sanh đã là Phật, tự tánh vốn thanh tịnh luôn luôn hiện hữu. Khi ánh sáng trí tuệ như ngọn đèn được thắp sáng, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp tự tan biến mất. Hiểu được và hành được Phật Pháp bằng thân giáo và khẩu giáo là công đức phước đức, lợi lạc cho mình và cho những người hữu duyên, thì hào quang cũng không khác gì chư Phật mười phương.
Trước bảo tọa thân
con ảnh hiện
Công phu “phản quan tự kỷ” chánh niệm tỉnh giác chiếu kiến từng hành động thuộc về thân khẩu ý. Đức Phật ví tâm con người như mặt biển và ngọn sóng, khi sóng yên biển lặng thì thấy được sóng và nước là một. Sóng lặng là định là an bình, dậy sóng là mê là phiền não. Mặt biển lúc nổi sóng và mặt biển lúc thanh bình, tuy là hai trạng thái hoàn toàn khác nhau, nhưng không phải là hai biển. Cũng vậy, tâm chúng ta lúc bình tĩnh thản nhiên và lúc nổi cơn tức giận, không hai, nhưng cũng không phải một. Tuy hai mà một, tuy một mà hai, chính là nghĩa đó vậy. Trước tình thương bao la bình đẳng của Phật tâm, con người rồi sẽ nhận ra thật tướng của cái ta là ai, tốt xấu như thế nào. Chư tổ các Ngài giúp môn đệ nắm vững đường lối tu hành và định hướng cho biết Phật tại tâm, tâm là Phật. Phật và chúng sanh chỉ là ngôn từ để sử dụng, chứng đắc hay ngộ nghĩa lý là do ở nơi mỗi người.
Công phu “phản quan tự kỷ” chánh niệm tỉnh giác chiếu kiến từng hành động thuộc về thân khẩu ý. Đức Phật ví tâm con người như mặt biển và ngọn sóng, khi sóng yên biển lặng thì thấy được sóng và nước là một. Sóng lặng là định là an bình, dậy sóng là mê là phiền não. Mặt biển lúc nổi sóng và mặt biển lúc thanh bình, tuy là hai trạng thái hoàn toàn khác nhau, nhưng không phải là hai biển. Cũng vậy, tâm chúng ta lúc bình tĩnh thản nhiên và lúc nổi cơn tức giận, không hai, nhưng cũng không phải một. Tuy hai mà một, tuy một mà hai, chính là nghĩa đó vậy. Trước tình thương bao la bình đẳng của Phật tâm, con người rồi sẽ nhận ra thật tướng của cái ta là ai, tốt xấu như thế nào. Chư tổ các Ngài giúp môn đệ nắm vững đường lối tu hành và định hướng cho biết Phật tại tâm, tâm là Phật. Phật và chúng sanh chỉ là ngôn từ để sử dụng, chứng đắc hay ngộ nghĩa lý là do ở nơi mỗi người.
Cuối đầu xin thệ nguyện
qui y,
Khi người tu đạt được trạng thái vắng lặng thấy được lẽ thật bừng tỉnh giác ngộ sinh tử, mong muốn quay về với chốn an bình tịnh lạc đó mới thật sự là “qui y”. Nhưng đâu là ranh giới của đau khổ và hạnh phúc, si mê và giác ngộ. Tu nghĩa là “dừng”, không mang mặc cảm phước mõng nghiệp dày, không tự mãn với những gì có được, mà thấy đời tu có ý nghĩa và an lạc. Khi liễu ngộ là đã nhận biết được đường hướng và mục đích cuối cùng một cách rõ ràng, hãy vững niềm tin mà tiến bước bằng nghị lực và ý chí không thối chuyển.
Khi người tu đạt được trạng thái vắng lặng thấy được lẽ thật bừng tỉnh giác ngộ sinh tử, mong muốn quay về với chốn an bình tịnh lạc đó mới thật sự là “qui y”. Nhưng đâu là ranh giới của đau khổ và hạnh phúc, si mê và giác ngộ. Tu nghĩa là “dừng”, không mang mặc cảm phước mõng nghiệp dày, không tự mãn với những gì có được, mà thấy đời tu có ý nghĩa và an lạc. Khi liễu ngộ là đã nhận biết được đường hướng và mục đích cuối cùng một cách rõ ràng, hãy vững niềm tin mà tiến bước bằng nghị lực và ý chí không thối chuyển.
Các
Thiền sư có câu: “Thủy lưu qui đại hải. Nguyệt lạc bất ly thiên”. Nước dù chảy
đi đâu, cuối cùng cũng về biển cả. Trăng lặn ở đâu, cũng không ra khỏi bầu trời.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Những câu chuyện
đời
Lời giới thiệu
: Đây là một vài câu chuyện dí dởm của người Tây Phương đượm sắc thái triết lý
Thiền, mời các bạn từ từ đọc để suy ngẫm.
Hình
ảnh cuộc đời
Ngày kia, nhà tỷ phú nọ mang cậu con trai duy nhất về nơi thôn dã với ý
định để cho con tìm hiểu và so sánh với cuộc sống nghèo nàn của người dân quê.
Hai cha con sống hai ngày tại một làng xóm xa xôi nơi mà người ta cho là có đời
sống khó khăn. Sau khi trở về nhà, người cha hỏi người con:
- " Con thấy cuộc đi chơi ra sao?"
- " Cuộc đi thích thú lắm" người con trả lời.
- " Con có thấy cuộc sống của người dân quê không?"
- " Dạ, có"
- " Con nhận thấy gì trong cuộc sống của họ?"
- " Con nhận thấy chúng ta chỉ có mỗi một con chó, mà họ thì có tới
bốn con. Chúng ta chỉ có một hồ bơi nhỏ ở giữa vườn, còn họ thì có cả một nhánh
sông chảy mút mùa. Chúng ta phải nhập cảng những chiếc đèn để treo trong vườn
mà họ thì không cần đến vì họ có đầy sao chiếu sáng lúc ban đêm. Tại chỗ ngồi
chơi trước nhà, chúng ta chỉ có thể nhìn tới bức tường ở cổng trước mà thôi,
còn họ có thể ngồi nhìn xuốt tới tận chân trời. Chúng ta chỉ có một khoảng đất
để sống quanh quẩn ở đó, còn họ có cả một khoảng đồng ruộng thẳng cánh cò bay.
Chúng ta phải có người ở để giúp việc chúng ta, còn họ thì không cần, họ tự lo
lẫn cho nhau. Chúng ta phải bỏ tiền đi mua đồ ăn, còn họ trồng lấy và tự túc về
thực phẩm. Nhà chúng ta phải có tường bao quanh để bảo vệ chúng ta, còn họ thì
không cần vì họ có những bạn tốt để đùm bọc lẫn nhau."
Trước những lý luận của người con trai, người cha đã không nói nên lời.
Người con nói tiếp : " Con cám ơn cha đã mang con đi du hành để tỏ
bầy cho con thấy chúng ta đang có một cuộc nghèo nàn như thế nào!"
* * *
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, mà
chỉ nghĩ tới những gì chúng ta không có và chưa có.
Những vật không đáng giá của người này chính là những vật mong uớc của
người kia. Đời là như vậy!
Hạnh phúc sẽ đến, nếu chúng ta biết ghi nhận những an lạc tràn trề chúng
ta đang có, thay vì chỉ nghĩ đến mộng uớc muốn có thêm.
Hãy tận hưởng những gì chúng ta đang có, nhất là những đồng bào, bạn bè,
thân quyến đang có chung quanh ta.
An
hưởng cuộc đời
Ngày xưa, có vị Hoàng Đế nọ muốn ban trọng ân cho một người cận thần.
Nhà vua phán : "Ngươi có công lao rất lớn với ta. Kể từ cổng thành trở đi,
ngươi phóng ngựa đi tới nơi nào ngươi dừng lại thì khoảng đất đó ta sẽ ban cho
ngươi." Viên cận thần nhảy lên ngựa phóng đi, ra sức phóng ngựa để có được
càng nhiều đất càng tốt. Người đó đi suốt ngày đêm, khi mệt và đói cũng không
dám ngừng nghỉ vì muốn có nhiều đất. Tới một ngày kia, sức khoẻ kiệt quệ vì đói
và mệt, hắn lả đi gần chết ở trong rừng. Hắn lẩm bẩm :" Tại sao ta tham
lam quá độ vậy, ta tận sức để có được nhiều đất đai. Bây giờ thì gần chết rồi ta
chỉ mong có được mộ? thước đất để được chôn cất mà thôi!"
* * *
Câu chuyện cổ kể trên cũng giống như cuộc đời của chúng ta. Hàng ngày,
chúng ta gắng sức làm việc để mong có tiền tài, danh vọng và quyền thế. Chúng
ta tận sức tới mức sao lãng sức khoẻ, đôi khi quên cả cuộc sống với gia đình,
quên cả những cảnh đẹp thiên nhiên. Ngay cả trong những buổi họp bàn bè với
danh nghĩa để giải trí, chúng ta vẫn có tư tưởng là sự giao thiệp sẽ có lợi cho
việc tạo thêm tiền tài, danh vọng hay thế lực.
Rồi một ngày kia nghĩ lại, chúng ta sẽ thấy những sự cố gắng đó vô nghĩa
lý. Than ôi! lúc đó thì ta không thể quay ngược kim đồng hồ được nữa, chúng ta
đã bỏ mất dịp hưởng an lạc của cuộc đời một cách chân chính.
Hãy sống tỉnh thức, để an hưởng cái đẹp của thiên nhiên, để tìm ra lẽ
sống của cuộc đời.
Cuộc đời rất mong manh, hãy an trú trong hiện tại.
Con bướm
Một người nọ tìm thấy một cái kén của con bướm . Anh ta nhận thấy cái
kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu,
anh thấy con sâu bướm cố hết sức lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Rồi
con sâu có vẻ ráng hết sức mà không lọt ra nổi và nằm im như chịu thua. Động
lòng thương, người nọ muốn giúp con sâu bướm, anh ta lấy mũi kéo nhỏ cắt vết
rách của cái kén để sâu bướm ta vuợt ra ngoài dễ dàng. Sau khi sâu bướm ra khỏi
kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì lại nhỏ. Người nọ cố chờ xem con
bướm có thể phát triển thêm ra không? mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng
thêm để đủ sức bay đi?
Than ôi! vô ích! con bướm đã bị trọn đời tàn tật, lê lết với chiếc cánh
nhỏ bé không thể bay đi được.
Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời con bướm. Anh không
biết là luật tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để?vượt ra khỏi lỗ
nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân
mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi chiếc kén, bướm ta mới có đủ sức
vuơn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.
* * *
Sức phấn đấu cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta vậy.
Nếu cuộc đời không có những trở ngại thì chúng ta sẽ bị bại liệt như con
bướm kia. Chúng ta không có đủ sức để bay bổng. Trước những thăng trầm thế sự,
chúng ta phải có đủ trí phấn đấu ngõ hầu vươn lên trong cuộc sống.
Chúng ta sẽ có sức dũng mãnh, vì cuộc đời có những trở ngại khiến chúng
ta phải đấu tranh.
Chúng ta sẽ có trí tuệ, vì cuộc đời có những vấn đề nan giải khiến chúng
ta phải giải quyết.
Chúng ta sẽ có can đảm, vì cuộc đời có những chông gai nguy hiểm khiến
chúng ta phải vượt qua.
Chúng ta sẽ có lòng từ bi, vì cuộc đời có những kẻ bất hạnh để cho chúng
ta giúp đỡ.
Chúng ta sẽ có thịnh vượng, vì cuộc đời tạo ra những trí óc và bắp thịt
khiến chúng ta phải vận dụng.
Các bạn có thấy đúng không ?
Tạm thời
Một vị thầy tâm linh nổi tiếng đến trước cửa lâu đài của vị vua nọ. Vì
Thầy nổi tiếng rồi, nên các người lính canh không ai chặn ông lại khi ông đi
vào và tiến thẳng đến trước mặt nhà vua đang ngồi trên ngai vàng.
- Ông muốn gì? nhà vua hỏi.
- Tôi muốn có một chỗ để ngủ trong cái quán trọ này. Ông ta đáp.
- Nhưng đây không phải là quán trọ, đây là tòa lâu đài của ta. Vua trả
lời.
- Xin hỏi bệ hạ rằng ai là sở hữu tòa lâu đài này trước bệ hạ?
- Vua cha ta, Ngài đã chết rồi.
- Và ai là sở hữu trước cha của bệ hạ?
- Ông nội của ta, Ngài cũng đã chết.
- Và cái chỗ này, nơi mà người ta sống một thời gian ngắn rồi dọn đi,
như vậy thì nó không phải là quán trọ như bệ hạ nói hay sao?
Lời bàn:
1. Vị thầy muốn cho nhà vua biết tòa lâu đài không phải của ông ấy. Nếu
tòa lâu đài tiêu biểu cho sự sống của nó, thì nó thuộc về ai? Sự sống có thuộc
về người nào hay không?
2. Sớm hay muộn gì tất cả chúng ta đều phải dọn đi, kể cả đời này và
nhiều đời sau nữa!
3. Chuyện này biểu lộ rằng người quyền thế nghĩ là quyền lực của họ
thường hằng. Nhưng không có gì trong cuộc đời này là thường hằng. Người như vậy
cần được đặt vào vị trí của họ.
4. Chúng ta sống và chết và không bao giờ thực sự sở hữu bất cứ thứ gì.
Có mấy người nghĩ sâu xa về điều này.
5. Vật chất và của cải làm cho bạn nghĩ rằng mọi thứ tồn tại vĩnh viễn.
Điều đó ngược lại sự nhận biết rằng mọi thứ trên đời này đều vô thường.
Đời sống Hoa Kỳ
Sau khi trải qua 5 năm trong trại cải tạo học tập của Cộng Sản, vị sĩ
quan nọ nạp đơn để xin đi Hoa Kỳ. Ông nghe người ta nói nhiều về đời sống dễ
dàng ở Hoa Kỳ, trong lòng có rất nhiều kỳ vọng. Thế rồi, ông và gia đình được
di dân sang Hoa Kỳ. Ngày đầu tiên đặt chân tới đất Mỹ, tại phi trường ông vào
một quán cafeteria chọn một cái bàn trống rồi chờ người hầu bàn tới đưa thực
đơn. Chờ mãi không thấy ai tới, rồi ông thấy một bà Mỹ bưng khay đầy đồ ăn ngồi
xuống bàn trước mặt và giảng cho ông là ở đây ông phải xếp hàng, tự lấy đồ ăn
rồi trả tiền.
Vài năm sau, sau khi gia đình và con cái đã ổn định và thành đạt. Trong
một bữa ăn thân mật gia đình và bạn bè, ông nhắc nhở tới kinh nghiệm ngày đầu
tiên tới đất Mỹ, ông nói: “Bây giờ tôi mới biết đời sống ở Hoa kỳ ra làm sao!
Cuộc đời cũng giống như một quán cafeteria! Chúng ta có thể có đủ mọi thứ với
điều kiện chúng ta phải trả một giá. Chúng ta có nhiều cơ hội đưa tới thành
công, nhưng thành công đó không phải do ai mang sẵn tới cho chúng ta cả! Chúng
ta phải đứng dậy tự lo liệu, tự tạo lấy và gặt hái lấy.”
Lời bàn:
Lời ví dụ chí lý kể trên chẳng phải riêng cho đời sống ở Hoa Kỳ, mà ở
đâu cũng vậy. Muốn thành công thì phải phấn đấu, muốn giàu có thì phải làm việc.
Người thợ xây cất.
Người thợ mộc già nọ làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu lâu năm cho
hãng thầu xây cất nọ. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về
hưu để vui thú với gia đình. Tuy không còn có đồng lương nhưng ông ta muốn nghỉ
ngơi để an hưởng tuổi già.
Hãng xây cất cũng vô cùng luyến tiếc là sẽ thiếu đi một người thợ giỏi
đã tận tụy nhiều năm. Hãng đề nghị với ông cố gắng ở lại giúp hãng xây cất một
căn nhà chót truớc khi thôi việc. Ông ta nhận lời. Vì biết mình sẽ giải nghệ,
cùng với sự miễn cưỡng, ông ta làm việc một cách tắc trách qua quít, xây cất
căn nhà với những vật liệu tầm thường kém chọn lọc miễn có một bề ngoài đẹp đẽ
mà thôi.
Mấy tháng sau, khi căn nhà làm xong, Ông đuợc ông chủ hãng mời tới, đưa
cho ông chiếc chìa khóa của ngôi nhà và nói : “Ông đã phục vụ rất tận tụy với
hãng nhiều năm, để tưởng thưởng về sự đóng góp của ông cho sự thịnh vượng của
hãng, hãng xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!”
Thật là bàng hoàng. Nếu người thợ mộc biết là xây cất căn nhà cho chính
mình thì ông ta đã làm việc cẩn thận và chọn lựa những vật liệu có phẩm chất
hơn. Sự làm việc tắc trách chỉ có mình ông tự biết và nay thì ông phải sống với
căn nhà mà chỉ có riêng ông biết là kém phẩm chất.
Lời bàn : Câu chuyện này cũng giống như chuyện đời của chúng ta. Chúng ta
giống như người thợ già kia thường tạo dựng một đời sống hào nhoáng, tạm bợ,
đua đòi không chú trọng tới phẩm chất của nó. Nhiều khi ngồi kiểm điểm những sự
bê bối của mình trong quá khứ, thì chúng ta thấy mình đang phải cam chịu những
hậu quả của nó. Đời là một công trình kiến trúc do chính mình tạo nên. Đời sống
hiện tại là kết quả của sự tạo dựng trong quá khứ, đời sống ngày mai sẽ là kết
quả của sự tạo dựng hôm nay. Hãy xây dựng đời mình một cách đúng đắn.
Đàn vịt trời.
Vào những mùa đông, chúng ta thường thấy hàng đàn vịt trời bay thành
hình chữ V, bay hàng trăm dặm từ Bắc xuống Nam để tìm nơi ấm cúng. Các nhà khoa
học đã khám phá rằng những đàn vịt trời đó có những quy luật di chuyển rất đáng
cho chúng ta suy gẫm về tinh thần đoàn thể.
1. Mỗi khi con vịt vẫy cánh bay, chúng sẽ tạo ra một luồng gió quyện và
tạo ra một hấp lực nâng con vịt bay bên cạnh. Như vậy khi chúng bay theo đội
hình chữ V, thì con nọ nương vào hấp lực của con kia, chúng có thể bay nhẹ
nhàng hơn và tăng khả năng bay xa hơn gần gấp đôi.
Con người ta cũng vậy, nếu những người có cùng một chí hướng mà biết
cách hợp quần thành những đoàn thể hay cộng đồng để nương tựa nhau thì?sẽ dễ
đạt được những mục đích cao cả hơn.
2. Khi một con vịt bị xa rời khỏi đội hình, thì nó sẽ cảm thấy bị đuối
sức vì phải tự lực, nên nó lại phải cố gắng bay vào trong đội hình để nương tựa
vào hấp lực của những con vịt bay trước.
Nếu chúng ta biết xếp chặt hàng ngũ, không xa rời đoàn thể hay cộng đồng
thì sẽ có lợi lớn.
3. Riêng con vịt bay đầu đàn là không được hưởng hấp lực của bạn đồng
hành, nên nó rất chóng mỏi mệt. Khi nó mệt thì nó sẽ bay xuống nương vào đội
hình và sẽ có con vịt khoẻ mạnh khác bay vào vị trí dẫn đầu, cứ như vậy thay
đổi trong suốt ngày bay.
Trong cộng đồng con người cũng vậy, vai trò lãnh đạo luôn luôn đuợc thay
đổi tùy theo tình thế, theo tinh thần dân chủ.
4. Trong khi bay, chúng thường lên tiếng kêu quác quác để thúc dục nhau
bay theo kịp một tốc độ.
Trong các đoàn thể, người ta phải biết nhắc nhở nhau để giữ vững tinh
thần hay thắt chặt tình đồng đội, Trong quân ngũ, các quân nhân thường lên
tiếng đếm hoặc hát để tất cả đoàn đi theo nhịp quân hành.
5. Khi một con vịt bị đau hay bị bắn trọng thương phải rời khỏi đội
hình, thì sẽ có hai con vịt đồng hành rời theo để nâng đỡ và bảo vệ. Hai con đó
ở bên cạnh con vịt yếu kém cho đến khi tự bay đuợc, hoăc bị rớt chết, thì chúng
mới bỏ bay theo đoàn vịt khác.
Chúng ta hãy suy gẫm tới tình đồng loại và những quy luật của đàn vịt
trời mà đối xử với nhau trong cùng một cộng đồng hay đoàn thể.
(trích trong Chicken Soup for the Soul)
Tiếng vang.
Hai cha con nọ đang đi men theo triền núi. Bỗng người con trai nhỏ trượt
chân và ngã, em la lớn lên “Ối chao!” . Em lấy làm ngạc nhiên khi thấy ở miền
núi xa có tiếng ai nhái lại “Ối chao!”. Em tò mò la lên “Ngươi là ai?” thì em
nhận lại tiếng nhái lại “Ngươi là ai?”, tức giận quá em quát lên : “Quân đốn
mạt!” , thì em lại nghe tiếng nhái lại: “Quân đốn mạt!”. Em nhìn người cha và
hỏi “Thế là thế nào hở cha?” Người cha mỉm cười và nói: “Này con hãy xem đây”
nói rồi Ông nói lớn lên: “ Anh hay quá!” thì nghe tiếng trả lời “Anh hay quá!”
. Rồi ông lại la lên: “ anh tuyệt vời quá!” thì cũng nghe tiếng trả lời “Anh
tuyệt vời quá! ”
Người con ngạc nhiên nhưng cũng vẫn chưa hiểu. Người cha ôn tồn giảng :
“Đó?là tiếng vang con ạ! Khi có những khoảng trống rộng rãi như ta có truớc mặt
đây thì các tiếng động lớn hay tiếng nói lớn nó sẽ dội lại như vậy. Con nói
những lời tức giận thì nó sẽ dội lại những lời tức giận, cha nói những lời đẹp
đẽ thì nó sẽ dội lại những lời đẹp đẽ! Ở đời cũng vậy! đời là sự dội lại của
các hành động của ta. Khi tâm ta có lòng từ bi, thì chúng ta sẽ nhận lại sự yêu
thương. Khi ta hành động những điều xấu, thì nỗi bất hạnh sẽ lại xảy đến cho
chúng ta.”
Ông ấy cần tôi.
Cô y tá nọ hướng dẫn một chàng thanh niên với vẻ mặt hốt hoảng âu sầu
tới bên giường bệnh của ông già . Cô nói : ”Ông ơi! Con trai ông đã tới đây
này!” Cô phải nhắc lại nhiều bận thì ông già bệnh nhân mới mở mắt ra nhìn. Ông
bị ảnh hưởng thuốc mê và cơn đau nên chỉ nhìn thấy lờ mờ người thanh niên đứng
bên bình dưỡng khí ở đầu giường.
Ông giơ tay quờ quạng nắm lấy bàn tay người thanh niên, xiết chặt ,
không rời tay ra như cần một sự an ủi. Cô y tá lăng săng mang một chiếc ghế lại
gần giường bệnh cho người thanh niên ngồi. Rồi suốt đêm đó, người thanh niên
ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn. Người bệnh già thì
chẳng nói đuợc câu gì , chỉ biết nắm chặt lấy bàn tay người thanh niên.
Sáng ngày ra, người bệnh nhân thở hắt ra và chết. Người thanh niên bùi
ngùi đặt cái bàn tay bất động nọ xuống bên giường, và đi báo tin cho cô y tá.
Trong khi cô ý tá làm thủ tục giấy tờ, người thanh niên tần ngần đứng bên cạnh.
Khi cô làm xong thủ tục, cô ngỏ lời chia buồn với chàng thanh niên , thì chàng
này hỏi cô rằng :” Ông ấy là ai vậy? tên là gì?” Cô y tá ngạc nhiên :”Tôi tưởng
Ông ta là cha anh?” Chàng thanh niên trả lời:” Không , ông ta không phải là cha
tôi, tôi chưa hề gặp ông ta bao giờ, tôi vào thăm người bạn có lẽ cùng họ, nên
cô dẫn tôi nhầm tới đây.”
Cô y tá kêu lên: “Ổ, thế sao anh không cho tôi biết khi tôi dẫn anh tới
đây!”
Chàng thanh niên nọ chậm rãi: “Khi tôi được biết ông ta bệnh nặng khó
qua khỏi, mà ông ta lại đang mong mỏi sự có mặt người con trai chưa tới được.
Ông ta đã yếu quá cũng không nhận ra được ai cả, tôi cảm thấy ông ta rất cần
tôi, nên tôi ở lại cũng có sao đâu!”
Lời bàn: Thật là một tấm lòng quảng đại.
Hai cách diễn giảng.
Ngày xưa, có một Ông Hoàng Ả Rập nọ triệu một nhà tiên tri tới hỏi ông
sẽ sống đuợc bao nhiêu năm. Nhà tiên tri nói : “Bệ hạ sẽ sống lâu, sống lâu tới
cỡ Ngài sẽ chứng kiến được các cái chết của các con Ngài“ . Ông Hoàng tức giận
vì lời nói súc phạm, ra lệnh cho quân sĩ mang ra chém đầu.
Ông liền triệu một nhà tiên tri khác và cũng hỏi câu hỏi về tuổi thọ đó
của ông. Nhà tiên tri này trả lời như sau : “Thưa Bệ Hạ, Ngài sẽ sống lâu, Ngài
sẽ sống thọ hơn tất cả mọi người trong gia đình Ngài” Ông Hoàng lên hoan hỷ và
tặng rất nhiều tiền cho nhà tiên tri.
Hai nhà tiên tri đều nói lên sự thật, nhưng một lời nói thì bộc trực, và
một lời nói thì uyển chuyển hơn.
Lời bàn : Cùng một sự thật, nhưng cách diễn giảng và cách dùng từ ngữ khôn
khéo thì dễ lọt tai hơn.
Tuệ Viên sưu tầm
Cuộc đời một cậu bé thay đổi nhờ một tù nhân
Nhờ có sự giúp đỡ của một tù nhân
đang thụ án trong trại giam can tội giết người và chú chó đáng yêu do anh ta
huấn luyện, một cậu bé ở Colorado, Mỹ đã chế ngự được những cảm xúc tiêu cực
của mình do căn bệnh tự kỷ gây ra.
Cậu bé Zachary Tucker ở Colorado Springs, bang
Colorado, Mỹ được chẩn đoán bị mắc hội chứng Asperger - một dạng hội
chứng bệnh rối loạn phát triển.
Khác với trẻ tự kỷ thường chậm nói và kém phát
triển trí tuệ, trẻ em bị mắc hội chứng Asperger phần lớn
vẫn nói bình thường, thậm chí nói khá nhiều, và có trí tuệ trung
bình, hoặc trên trung bình. Tuy nhiên, những đứa trẻ mắc hội chứng này lại
có nhiều biểu hiện của sự vụng về, hậu đậu và kém về các kỹ năng cần có của một
đứa trẻ.
Căn bệnh quái ác không những cản trở sự phát triển bình
thường của Zachary, mà còn gây ra cho cậu bé những cơn hoảng loạn tinh thần đột
xuất khó kiểm soát. Zachary rất khó ngủ và thường xuyên khóc dai dẳng
không rõ lý do.
Bố mẹ của Zachary - ông Arthur và bà Susy hết sức quan tâm,
chăm sóc con trai. Họ luôn cố gắng giúp cậu bé bình tĩnh và ổn định tinh
thần trở lại sau những lần bị kích động, không cho bất kỳ ai chạm vào người
mình. Tuy nhiên, biểu hiện của Zachary ngày một nghiêm trọng hơn khiến cho
ông bà Tucker vô cùng lo lắng. Họ hy vọng có thể tìm ra một phương pháp
giúp con mình sớm thoát khỏi tình trạng kể trên.
Trong một lần tìm kiếm trên mạng, vợ chồng Tucker đã vô tình
biết được câu chuyện về Chris Vogt, một người đàn ông đặc biệt chuyên huấn
luyện chó để làm bạn đồng hành với những đứa trẻ tự kỷ. Tuy được nhiều
người ca ngợi là chuyên gia giỏi nhất trong lĩnh vực này, nhưng Chris lại đang
phải thụ án 48 năm tù giam về tội giết người cấp độ 2 kể từ năm 1998. Điều
này khiến ông Arthur và bà Susy cảm thấy không yên tâm.
Vợ chồng Tucker cho rằng việc để một đứa trẻ tiếp xúc với
một tên sát nhân ở trong trại giam là hết sức mạo hiểm. Thế nhưng, với mong
muốn chữa khỏi bệnh cho con trai, họ đã vượt qua mọi nỗi sợ hãi, lo âu và quyết
định gặp gỡ Chris, đồng thời giúp Zachary chuẩn bị tinh thần tiếp xúc với
chú chó của anh ta.
Được biết, trong khoảng thời gian ngồi tù, Chris đã tham gia
chương trình huấn luyện các chú chó bảo vệ, đặc biệt là để hỗ trợ những người
bị mù và điếc. Chris khăng khăng cho rằng loài chó có thể cứu chữa cho những
đứa trẻ mắc bệnh tự kỷ, thế nên anh đã bắt đầu nghiên cứu mọi thông tin liên
quan đến căn bệnh này và chương trình đào tạo chung cho những người huấn luyện
chó.
Ngạc nhiên thay là cho dù rất sợ Chris, nhưng ngay khi vừa
gặp gỡ chú chó Clyde do Chris huấn luyện, Zachary đã nhanh chóng chế ngự được
cảm xúc của mình. Chú chó Clyde đã được Chris huấn luyện cách cảm nhận và
ứng phó với những cơn hoảng loạn bộc phát của Zachary.
Mỗi khi nhận thấy nhịp tim của Zachary bắt đầu đập nhanh
hơn, Clyde sẽ thúc vào người cậu bé nhằm đánh lạc hướng, không để tình hình trở
nên khó kiểm soát hơn. Khi ấy, cậu bé tự kỷ sẽ hiểu rằng mình cần phải chăm sóc
và nuôi dưỡng chú chó đáng yêu, sau đó nhanh chóng lấy lại được bình tĩnh.
Trước khi đưa Clyde về nhà bầu bạn với Zachary, gia đình Tucker
đã tới nhà tù thăm Chris vài lần để cùng anh thực hành huấn luyện chó. Và chỉ
sau một thời gian ngắn, họ đã nhận được kết quả đáng kinh ngạc khi những cơn
hoảng loạn của Zachary đã giảm đi ít nhất là 70%, cậu bé cũng trở nên dễ ngủ
hơn và thậm chí còn có thể thoải mái tiếp xúc, hoà nhập với các bạn cùng
trường, điều mà trước đây cậu không thể làm được. Giờ đây, thay vì phải
chuyển hết trường này đến trường khác, Zachary đã có thể tham gia tất cả các
lớp học nâng cao ở trường.
Vào ngày ông Arthur cùng bà Susy đưa con trai trở
lại nhà tù để cảm ơn Chris, Zachary đã đến gần và ôm chầm lấy người đàn ông xa
lạ mà trước đây cậu bé vô cùng sợ hãi. Chris xúc động đến phát khóc khi
biết chú chó của mình đã giúp cậu bé đáng yêu vượt qua bệnh tật.
Chris đã mang chú chó Clyde đến với Zachary, Clyde đã góp
phần tạo ra cho Zachary một cuộc đời mới, còn cậu bé Zachary đã giúp Chris tìm
lại được ý nghĩa của cuộc sống. Chris rất vui vì đây cũng có thể coi là một
cách giúp anh gột rửa quá khứ tội lỗi và chuộc tội với cuộc đời.
Có lẽ chính sự quan tâm, chăm sóc chân thành đã giúp cảm hóa
và thay đổi một con người và khiến cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Nhờ có kẻ sát nhân đang thụ án trong trại giam, cuộc đời của
cậu bé tự kỷ đã thay đổi hoàn toàn.
Không chỉ cứu giúp được cậu bé tự kỷ đáng thương, đây còn là
cách để Chris chuộc tội với cuộc đời.
CƠN MÊ - Ý NGHIÃ CÚNG
HOA - HƯƠNG - ĐÈN
TÌM TỈNH L ẶNG TRONG ĐỜI SỐNG - XUÂN BÌNH YÊN
ĐẦU NĂM ĐI CHUÀ
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ KHÔNG? - PHƯỚC BÁU
MÙA VU LAN MÊ TÍN TRÀN LAN
TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2016/03/tram-ngan-muon-kiep-khong-de-gap.html