Thiền sư Thích Nhất Hạnh
“Thanksgiving
Day” là ngày lễ Tạ Ơn theo truyền thống của người Mỹ (27/11). Tại Làng
Mai, hàng năm chúng tôi đều tổ chức lễ Tạ Ơn, nhưng với một tinh thần khác:
Tinh thần của sự thực tập làm lớn lên lòng biết ơn để nuôi dưỡng niềm hạnh phúc
trong đời sống của mỗi người. Bởi vì khi nào còn có lòng biết ơn thì khi ấy hạnh
phúc vẫn còn có mặt. Người nào đã cạn kiệt lòng biết ơn, thì hạnh phúc không
thể còn có nơi người âý được.
Theo
truyền thống Cơ đốc giáo, biết ơn được hiểu là biết ơn Thượng đế, biết ơn Chúa.
Bởi theo Cơ đốc giáo thì Thượng đế đã sinh ra ta, sinh ra vạn vật và tất cả
những gì cần thiết cho cuộc sống. Còn trong truyền thống đạo Bụt, sự biết ơn
được hiểu như Tứ ân: ta mang ơn cha mẹ, mang ơn thầy tổ, mang ơn bạn bè và mang
ơn tất cả mọi loài chúng sinh. Vì cha mẹ cho ta hình hài này, thầy tổ cho ta
đời sống tâm linh, bạn bè là những người đồng hành, nâng đỡ ta trong những lúc
khó khăn, các loài hữu tình và vô tình khác mang lại cho ta những điều kiện cần
thiết cho cuộc sống. Ta biết rằng, tổ tiên của ta không chỉ là loài người.
Chúng ta có chung nguồn gốc với các loài động vật, thực vật và cả những loài
khoáng vật. Bởi con người xuất hiện rất muộn trong lịch sử hình thành sự sống.
Do vậy, lòng biết ơn không chỉ hướng đến loài người mà tất cả mọi loài. Đối
tượng của lòng biết ơn trong đạo Bụt rất lớn.
Người
phương Đông có quan niệm phú tải chi ân, ân che chở, trời che đất chở.
Bầu trời ôm lấy ta, che chở ta. Còn mặt đất chuyên chở ta, là nơi cư trú của
ta. Trên thì che, dưới thì chở. Đó là ý niệm về lòng biết ơn của người phương
Đông. Nếu có tuệ giác, ta thấy được mọi thứ hiện hữu xung quanh đều có ơn đối
với ta. Khi nhìn nước chảy từ vòi ra, ta ý thức rõ: “Nước từ nguồn suối cao.
Nước từ lòng đất sâu. Nước mầu nhiệm tuôn chảy. Ơn nước luôn tràn đầy.” Trong
ta sẽ dâng lên niềm biết ơn nếu ta biết quán chiếu như vậy. Rồi ta nhìn sâu để
biết ơn không khí, lửa,… Niềm biết ơn của ta sẽ bao trùm vạn hữu vũ trụ.
Trong
ngày Tạ Ơn, người Mỹ thường có truyền thống trang hoàng bằng những trái bí rợ
(bí đỏ) rất lớn, những trái dưa, những trái bắp. Đó là những quà tặng của đất
trời. Quà tặng ấy ta được tiếp nhận mỗi ngày. Ta cần thể hiện lòng biết ơn 24
giờ mỗi ngày. Ngày Tạ Ơn chỉ là biểu trưng cho lòng biết ơn ấy. Ta cần thực tập
để lòng biết ơn trải rộng trên khắp mọi loài. Lòng biết ơn mà còn bị giới hạn
thì chưa phải là lòng biết ơn đích thực. Chúng ta thường nghĩ rằng cha mẹ là
người nuôi dưỡng ta nên vóc nên hình. Nhưng nhìn sâu hơn, ta có thể thấy góp
công vào sự dưỡng dục ấy còn có rất nhiều yếu tố như đất, trời,… Nếu không có
đất, có mặt trời sao có được lúa gạo, sao có được bông để dệt vải,… Do vậy, ta
cũng có thể gọi mặt trời là cha chung của muôn loài, trái đất là mẹ chung của
muôn loài.
Người
trao truyền, vật trao tryền và người tiếp nhận
Trong
triết lý của đạo Bụt, chuyện cho và nhận được nhận thức rất sâu sắc. Khi quán
chiếu sâu sắc, ta thấy rằng trong quan hệ cho – nhận, người cho với người nhận
không phải là hai thực tại riêng biệt mà người cho cũng là người nhận và người
nhận cũng là người cho. Thực tế là vậy, nhưng ít khi ta thấy được điều này. Ví
dụ, tuy ta biết cha mẹ là người trao truyền cho ta hình hài này nhưng ta vẫn có
khuynh hướng nghĩ rằng ta và cha mẹ là hai thực thể riêng biệt. Cha mẹ là một
thực thể khác, con là một thực thể khác. Thấy như thế thì chưa đúng với tinh
thần đạo Bụt. Nhìn kỹ, hình hài này chứa đựng cả cha mẹ. Cha mẹ có mặt trong
từng tế bào cơ thể của con. “Con có cha có mẹ. Cha mẹ có trong con”. Con
mang đầy đủ những hạt giống và nhiễm sắc thể của cha mẹ. Người trao truyền
và vật trao truyền là một. Đây gọi là cái nhìn Bất nhị, một giáo lý rất thâm
sâu trong đạo Bụt.
Nếu đem
cái nhìn bất nhị này áp dụng vào trường hợp của những người bạn Cơ đốc giáo và
Do Thái giáo ta sẽ có được những cái thấy rất hữu ích. Các bạn Cơ đốc giáo và
Do Thái giáo nếu quán chiếu thật kỹ sẽ thấy được mình và Thượng đế không phải
là hai thực thể riêng biệt. Ta ở trong Thượng đế và Thượng đế ở trong ta. Đối
với vấn đề tạo hóa và tạo vật cũng vậy.Ta hay quan niệm rằng tạo hóa và tạo vật
là khác nhau. Nhưng nếu nhìn kỹ vào tạo hóa sẽ thấy được tạo vật ở trong, và
ngược lại. Nếu không có liên hệ với nhau thì làm sao tạo hoá làm ra tạo vật
được? Nếu không có liên hệ, làm sao có sự trao truyền? Trong truyền thống
Cơ đốc, nhiều vị tu sĩ đã thấy được điều này là nhờ có cái nhìn Bất nhị. Họ
không đi tìm Thượng đế và Chúa bên ngoài họ bởi họ đã thấy Thượng đế và Chúa
ngay bên trong họ. Kinh Phúc âm có dạy rằng : “Chúa, Thượng đế nằm ở
trong trái tim của mình chứ không phải là một thực thể bên ngoài mình”.
Do
vậy, người trao truyền chính là vật trao truyền vì người trao truyền đã trao
truyền chính mình cho người tiếp nhận. Đứng về phía người tiếp nhận vật trao
truyền, họ cũng chính là vật trao truyền. Tuy nói rằng sự trao truyền có ba yếu
tố: người trao truyền, người tiếp nhận, và vật trao truyền nhưng kỳ thực, ba
yếu tố đó chỉ là một. Cái này được gọi là Tam luân không tịch, tức là ba
cái không có sự riêng biệt. Người trao truyền, vật trao truyền và người tiếp
nhận nương nhau mà có. Một trong ba yếu tố vắng mặt thì hai yếu tố còn lại
không thể được hình thành.
Ngày Tạ
Ơn là cơ hội để thể hiện lòng biết ơn. Nhưng lòng biết ơn ấy có sâu sắc hay
không còn tùy thuộc vào cái thấy về lòng biết ơn có sâu sắc hay không. Cái thấy
sâu sắc nhất chính là cái thấy Bất nhị, người mình mang ơn và mình là một.
Trong ngày biết ơn, không phải chỉ ý thức đến sự may mắn của mình mà còn
phải quán chiếu cho sâu sắc vấn đề này để đạt đến tuệ giác Bất nhị.
Trong
truyền thống đạo Bụt có dùng danh từ pháp để chỉ sự vật là những đối tượng của
tâm thức. Pháp đây không có nghĩa là giáo pháp. Ví dụ: cây bút được gọi là một
pháp, con mắt là một pháp, trái bí ngô là một pháp. Cơ thể ta có sáu căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Và đối tượng của sáu căn là sáu trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp. Sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của
tai, hương là đối tượng của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của
thân, và pháp là đối tượng của ý. Do vậy, chữ pháp có nghĩa là những cái ta
nhận thức được.
Khi ta có
tri giác, cái tri giác đó có hai phần: chủ thể và đối tượng. Chủ thể và đối
tượng phát hiện cùng một lúc. Khi nói thấy, luôn luôn phải có đối tượng của cái
thấy ấy. Thấy cái gì? Tương tự với nghe, ngửi, nếm, xúc và ý. Đây là vấn đề rất
khó trong đạo Bụt nhưng lại hết sức căn bản. Vì khi hiểu được điều này mới có
thể hiểu được các giáo lý của Bụt. Ví dụ, khi nhìn trái bí ta cần tập nhận biết
trái bí là đối tượng của ý và không tách rời khỏi tâm. Đây cũng là vấn đề Bất
nhị, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không độc lập mà gắn liền với
nhau. Thực tập điều này hơi khó, nhưng ta có thể đạt được. Ngành khoa học lượng
tử đã bắt đầu hé mở được vấn đề này. Các nhà khoa học đã thấy được rằng đối
tượng nghiên cứu của ta ở đâu thì tâm mình ở đó. Tuy nhiên, họ vẫn còn bị kẹt
vào ý niệm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức độc lập nhau. Đó là cái
thấy nhị nguyên, một cái thấy rất thông thường của con người.
Phá vỡ
được cái thấy nhị nguyên chỉ có thể nhờ vào công phu quán chiếu. Hiện nay, các
nhà khoa học đang chật vật để vượt qua điều này. Và khả năng giải thoát sanh tử
của các hành giả cũng đều tùy thuộc vào việc có vượt qua được hàng rào của kiến
chấp nhị thủ hay không. Trong kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm có đề cập đến bốn đối
tượng để quán chiếu: thân, thọ, tâm và pháp. Quán thân nơi thân, quán cảm thọ
nơi cảm thọ, quán tâm nơi tâm, quán đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.
Lĩnh vực quán chiếu thứ tư là pháp. Pháp là đối tượng của tâm, không tách rời
khỏi tâm, không ở ngoài tâm.
Khổ đau
có mặt nhưng hạnh phúc cũng có mặt
Chúng ta
có nói căng thẳng là yếu tố luôn góp mặt trong những nguyên nhân gây ra những
khổ đau như lo lắng, sợ hãi, bạo động, gia đình tan vỡ, ly dị, tự tử, chiến
tranh, xung đột, khủng bố, ô nhiễm môi trường, địa cầu bị hâm nóng… Còn rất
nhiều nỗi khổ đau trong lòng mỗi người, mà chúng ta không thể kể hết ở đây.
Theo nhận
thức của những nhà chính trị, những nhà kinh tế, những nhà cách mạng thì khổ là
nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, bất công xã hội, nô lệ, kỳ thị,… Nhưng nếu
quán chiếu cho sâu, họ cũng thấy được rằng những cái mà họ cho là khổ không nằm
ngoài mối quan hệ với những nỗi khổ trong tự thân. Giả sử không có nghèo đói,
không có bệnh tật, không có thất nghiệp, không có bất công xã hội thì vẫn có
những căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, bạo động, chiến tranh như thường. Khổ
vẫn có như thường. Nếu chúng ta không bị căng thẳng, không lo lắng, không sợ
hãi, không bạo động thì tự nhiên nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp sẽ được giảm
bớt. Chúng ta cần phải nhìn nhận một cách sâu sắc để biết được cái nào
đích thực là khổ. Ví dụ, một người tranh đấu chống nạn thất nghiệp để có cơm
ăn, áo mặc, nhà ở, để có tự do. Vì theo họ thì bị thất nghiệp, không có cơm ăn,
áo mặc, nhà ở,… là khổ. Nhưng có thể trong họ vẫn có sự lo lắng, căng thẳng, sợ
hãi, giận hờn, và họ vẫn khổ, cho dù họ có đấu tranh thành công để có được việc
làm, để có được tự do.
Cho nên,
cái khổ có nhiều mặt. Và khi đề cập đến tập đế, chúng ta có thể nói nó là con
đường bát tà – tức là con đường không có mặt của chánh kiến, chánh tư duy. Nó
là nguyên nhân đưa đến khổ đau. Nhờ biết được nguyên nhân khổ đau, ta chuyển
hóa được khổ đau. Diệt đế là sự vắng mặt của khổ đau, sự vắng mặt của bóng tối.
Khổ đau vắng mặt thì hạnh phúc có mặt. Bóng tối vắng mặt thì ánh sáng có mặt.
Hạnh phúc là ngược lại với căng thẳng. Hạnh phúc là ngược lại với lo lắng. Hạnh
phúc là ngược lại với sợ hãi. Trong hạnh phúc không thể có mặt yếu tố bạo động,
yếu tố tan vỡ. Diệt đế là hạnh phúc, nhưng trong hạnh phúc thì khổ đau cũng có
thể đang có mặt một phần nào đó. Công nhận khổ đế không có nghĩa là không có
hạnh phúc. Công nhận có bùn không có nghĩa là không có sen. Trong giây phút
hiện tại, trong ta vừa có bùn, vừa có sen; vừa có rác, vừa có hoa. Nếu nói khổ
đế là một sự thật thì diệt đế cũng là một sự thật. Cuộc đời có những khổ đau,
nhưng cuộc đời cũng đang có những hạnh phúc.
Sáng nay
ngồi thiền, tôi cảm thấy rất hạnh phúc và hạnh phúc là một chuyện thật. Khi nói
đến Tứ diệu đế, nếu nghĩ rằng Tứ diệu đế chỉ có nói tới khổ đau thôi thì không
đúng. Tứ diệu đế nói rằng có khổ đau nhưng đồng thời hạnh phúc cũng đang có
mặt. Nhìn cho kỹ thì khổ đau cũng đóng một vai trò nào đó để tạo dựng hạnh
phúc. Vấn đề là làm thế nào để làm vơi bớt khổ đau và làm tăng trưởng hạnh
phúc. Luân lý đạo đức là những nguyên tắc, những phương pháp hành động để giảm
thiểu khổ đau và nuôi lớn đạo đức. Cho nên không hẳn là tiêu diệt khổ đau
mới có hạnh phúc.
Vào
khoảng 6 giờ sáng trên bầu trời có cả mảng sáng và mảng tối, sáng tối đan xen
vào nhau. Khổ đau và hạnh phúc cũng vậy, chúng nương vào nhau. Trong tuệ giác
tương tức thì cái này được làm bằng cái kia và cái kia được làm bằng cái này, “thử
hữu tức bỉ hữu, thử vô tức bỉ vô” (cái này có vì cái kia có, cái này không
vì cái kia không”. Giống như sen với bùn, nếu không bùn thì không có
sen. Cho rằng tất cả đều là khổ là một ý niệm sai lầm. Bụt nói rằng: “Con ơi,
có những khổ đau và con phải quán chiếu để chặt đứt khổ đau”. Chứ Bụt không hề
nói: ”Tất cả đều là khổ hết con ạ”. Nếu một nhà thần học vì thương
Bụt mà tìm đủ mọi cách để chứng minh đời là khổ để cho Bụt đúng thì ông ta hại
Bụt rồi. Bởi vì làm như vậy là ông ta không hiểu được lời dạy của Bụt.
Công nhận
khổ đau đang có mặt và cho rằng tất cả đều là khổ là hai chuyện hoàn toàn khác
nhau. Sai lầm đầu tiên là cho rằng mọi thứ là khổ. Sai lầm thứ hai là tưởng
rằng chỉ khi nào khổ đau vắng mặt hoàn toàn thì khi ấy mới thực sự có hạnh
phúc.
Tuy cuộc
đời có khổ đau nhưng nhờ tu tập ta tìm được những giây phút rất hạnh phúc. Cho
dù đang trong hoàn cảnh khốn khó tới mấy thì vẫn luôn còn đó những điều kiện
hạnh phúc, tuy ít ỏi nhưng nó có đó. Ngược lại, nếu cho rằng đời toàn niềm vui
cũng không đúng. Đời có khổ có vui, cái khổ đang đóng một vai trò nào đó để làm
ra cái vui. Nếu không đói thì ta ăn sẽ không ngon. Nhờ có cái đói ta mới cảm
thấy hạnh phúc khi được ăn.
Trong
kinh có nói năm uẩn là khổ. Người xưa diễn tả khổ là: Sinh, già, bệnh, chết.
Sinh ra là khổ, già là khổ, bệnh tật là khổ, chết là khổ. Ham muốn mà không
được là khổ, ghét bỏ mà phải gần gũi là khổ, thương nhau mà phải xa lìa và năm
thủ uẩn là khổ. Thủ có nghĩa là bị kẹt, bị vướng mắc vào. Uẩn là năm yếu tố tạo
nên con người gồm có: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (hình hài, cảm thọ, tri giác,
tâm hành và nhận thức). Nếu bị kẹt vào năm uẩn, bị dính mắc vào và cho chúng là
của mình thì lúc đó mới khổ.
Năm uẩn không khổ nhưng năm thủ uẩn mới khổ. Đức Thế Tôn nhờ có năm uẩn mà ngày hôm nay chúng ta mới có giáo pháp để hành trì. Ngài cũng có năm uẩn nhưng Ngài không khổ bởi vì Ngài không bị kẹt, không cho rằng năm uẩn là vật sở hữu của mình, nhờ đó nên ngài được tự do. Uẩn của ngài không phải là thủ uẩn. Các pháp không phải là khổ nhưng vì kẹt vào các pháp nên mới khổ.
Năm uẩn không khổ nhưng năm thủ uẩn mới khổ. Đức Thế Tôn nhờ có năm uẩn mà ngày hôm nay chúng ta mới có giáo pháp để hành trì. Ngài cũng có năm uẩn nhưng Ngài không khổ bởi vì Ngài không bị kẹt, không cho rằng năm uẩn là vật sở hữu của mình, nhờ đó nên ngài được tự do. Uẩn của ngài không phải là thủ uẩn. Các pháp không phải là khổ nhưng vì kẹt vào các pháp nên mới khổ.
Trích “Con đã có đường đi – Thích Nhất Hạnh”
Bên em mùa Vu Lan
Mừng em ngực cài hoa hồng đỏ
Mừng em còn mẹ sống trên đời
Rưng rưng tôi nhận bông hồng trắng
Hoa trắng tôi cài đau đớn lắm em ơi
Mỗi màu hoa có một nỗi buồn vui
Mỗi giọt nước mắt có mấy tầng chua xót
Chiếc lá vàng thay mái đầu điểm bạc
Mẹ tôi đã đi xa
Đi xa mãi trần đời
Tháng bảy về nước mắt lại rơi
Hoa hồng trắng mà lòng tôi thâm tím
Chim mất mẹ tiếng hót buồn ai oán
Thui thủi một mình đêm lạnh co ro
Đời người là một chuỗi âu lo
Dẫu chẳng biết nắng mưa vẫn phải sống hết lòng hết
dạ
Phụng dưỡng mẹ cha là điều cao cả
Hạnh phúc biết bao khi áo cài hoa hồng
Có chút gì xa xót trong lòng em không
Đi bên tôi mùa Vu Lan trầm lắng
Tôi mất mẹ ngực tôi cài hoa trắng
Hoa trắng buồn rưng rưng
Cùng em quỳ dưới tiếng chuông ngân
Ngôi sao lẻ loi
Bầu trời trống lạnh
Trong mắt em có nỗi buồn lấp lánh
Như có điều gì san sớt với tôi chăng
CHO
TRỌN NIỀM VUI MÙA VU LAN
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2012/08/cho-tron-niem-vui-mua-vu-lan.html
VÌ CON MẸ CÓ ĐƯỢC HẠNH PHÚC
HÃY TỰ MÌNH VƯỢT QUA NỖI ĐAU
PHẬT HÓA HỮU DUYÊN NHƠN
PHÓNG SINH CHIM TỘI HAY PHƯỚC
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2013/08/phong-sinh-chim-mua-vu-lan-lam-phuc-hay.html
THƯ
NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 26
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2014/08/thu-ngo-va-muc-luc-phtq-so-26.html
HIỆN
TƯỢNG MÊ TÍN TRONG CÁC TÔN GIÁO
TU
TÂM DƯỠNG TÁNH
http://phtq-canada.blogspot.ca/2014/05/tu-tam-duong-tanh-cu-tran-lac-ao-tap-3.html