Tác Giả: VIÊN NGỘ
Sống trên cuộc đời, cho dù bạn có nhiều tiền bạc, nhà
cửa nguy nga tráng lệ đến mấy thì vẫn cảm thấy trống vắng, buồn chán và
bế tắc tâm linh sầu khổ. Bởi khi nào những cảm xúc lo lắng, sợ hãi,
thương nhớ, giận hờn… vẫn còn ngự trị trong tâm chưa được chuyển hóa,
thì bạn không thể tự do và an lạc. Chỉ trừ khi bạn biết trở về nương tựa
Tam bảo để học hỏi và thực hành theo lời dạy của đức Thế Tôn, thì đời
sống của bạn mới thực sự an vui và hạnh phúc.
Quy y Tam bảo có nghĩa là bạn
trở về nương tựa vào ba ngôi báu là Phật (Buddha), Pháp (Dhamma) và
Tăng (Sangha). Phật là bậc đã giác ngộ viên mãn, chấm dứt khổ đau và
giải thoát luân hồi sinh tử. Tình thương và sự hiểu biết của đức Phật
rất lớn, Ngài có khả năng hóa độ cho tất cả mọi người chuyển mê khai
ngộ, tạo dựng một đời sống an lành hạnh phúc. Pháp là lời dạy của đức
Thế tôn nói ra đúng với chân lý cuộc sống, giúp bạn thấy rõ gốc rễ của
mọi vấn đề, nhằm điều chỉnh nhận thức sai lầm của mình và trở thành một
con người lương thiện, hữu ích cho xã hội.
Tăng là đoàn thể xuất gia gồm có từ bốn người trở lên, chung sống với nhau trong tinh thần hòa hợp và thanh tịnh. Các vị này có một nếp sống nhẹ nhàng, thanh thoát và tỉnh thức. Sứ mạng của họ là tiếp nối sự nghiệp trí tuệ và từ bi của đức Phật để trao truyền lại cho chúng sinh bằng những kinh nghiệm thực chứng. Hành trạng của các vị ấy quả thật là cao quý, xứng đáng cho cả nhân loại này tôn kính và cúng dường, bởi không có Tăng thì chúng ta sẽ không thể hiểu lời dạy thâm sâu, quý báu của Đức Từ phụ Thích-ca-mâu-ni.
Chính vì sự hiện hữu của Tăng quan trọng đến như thế, cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng: “Thánh chúng của Như Lai đang đi về nẻo thiện, đang đi trên đường chánh, đang hướng theo giáo pháp, đang thực tập theo giáo pháp và sống đúng tinh thần giáo pháp… Thánh chúng này đáng được tôn kính, đáng được quý trọng, đáng được phụng sự, đáng được cúng dường, và đó là ruộng phước tốt đẹp cho cuộc đời này.” (Kinh Người Áo Trắng, sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000, Thiền sư Nhất Hạnh soạn dịch).
Như vậy, Tam bảo là nơi an ổn vững chắc, là đỉnh cao của hạnh phúc mà tất cả chúng sinh cần phải quy kính và nương tựa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có không ít người đến chùa quy y Tam bảo và thọ trì năm giới, nhưng họ vẫn chưa đủ phước duyên để học hỏi đạo lí một cách cặn kẽ; có thể vì hoàn cảnh khách quan hoặc chính bản thân họ thiếu sự phấn đấu để được tiếp nhận Chánh pháp. Cho nên họ chưa sống đúng với nội dung quy y Phật, Pháp và Tăng, vì thế những phiền não khổ đau vẫn cứ mãi bủa vây, đeo đẳng. Thực ra, khi bạn đến chùa làm lễ quy y chỉ là chọn cho mình một con đường để đi, chứ bạn chưa thực sự bước đi trên con đường sáng đẹp đó. Trừ khi bạn hiểu được lời Phật dạy và ứng dụng lời dạy ấy vào trong đời sống hàng ngày.
Có những người hiểu nhầm rằng, quy y Tăng là quy y với một vị thầy hay một sư cô nào đó, còn các vị ở chùa khác thì không cần biết đến. Do nhận thức sai lầm như thế, nên họ thiếu cơ duyên tiếp xúc với những vị thầy khác để được học hỏi đạo lí. Chúng ta phải hiểu rằng, Tăng là đoàn thể xuất gia từ bốn người trở lên, còn cá nhân của một vị Tỳ-kheo không thể gọi là Tăng.
Việc quy y Tam bảo là tùy vào nhân duyên, hoàn cảnh sống của mỗi người để có thể nương tựa và học hỏi với một vị Tỳ-kheo nào đó, nhưng không phải chỉ duy nhất quy y vị ấy. Mặt khác, quy y không phải là nhờ thầy đặt cho bạn pháp danh, để rồi thỉnh thoảng bạn mới đến chùa lễ lạy cầu xin “mua may bán đắt”… Với hành động mê tín như thế, vô tình bạn đã tự tạo ra nghiệp xấu cho bản thân và ảnh hưởng không nhỏ đến những người muốn phát tâm quy hướng Tam bảo.
Chúng ta đến với đạo Phật không phải là van xin cầu nguyện, mà đến để học cách sống như thế nào cho có an vui và hạnh phúc. Vì vậy, khi bạn đã biết trở về nương tựa Tam bảo thì cần phải tìm hiểu giáo pháp cho tường tận, để từ đó bạn có cái nhìn đúng đắn và thấu suốt được mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Ý nghĩa thâm sâu hơn của việc quy y
Tam bảo ở đây chính là nương tựa vào ba đức tính sáng suốt (phật), chân
thật (pháp) và thanh tịnh (tăng) vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, gọi là
“tự quy y”. Thực ra, trong tâm thức của chúng ta vốn thanh tịnh, trong
sáng nhưng vì vô minh ái dục che lấp nên cái thấy biết “như thật” về các
pháp bị lu mờ. Do đó, để khai mở tuệ giác, bạn cần phải thường trực
nhận diện và quan sát mọi hoạt dụng của thân tâm và hoàn cảnh đương tại.
Khi tâm ý vắng lặng, an tịnh thì bạn sẽ thấy rõ được sự vận hành tương
giao của các pháp, và với cái nhìn thông suốt như thế bạn mới thực sự là
người quy y Tam bảo.
Nếu như mỗi hành động, nói năng và sự suy nghĩ của bạn vắng mặt tự tính thanh tịnh, chân thật và sáng suốt thì kể như bạn đã quy y vào bản ngã tham sân si. Và dĩ nhiên, đời sống của bạn luôn luôn sẽ bị phiền não khổ đau giam hãm, trói buộc. Vì vậy, quy y Tam bảo không phải là việc chú trọng về hình thức lễ nghi, mà đòi hỏi bạn phải biết cách để quán chiếu về thân, khẩu và ý của mình trong từng giây từng phút. Nếu bạn thực hành đúng như lời Phật dạy thì sẽ đạt đến đỉnh cao của hạnh phúc, không có gì cao quý hơn nữa nên gọi là “Bảo”. Thiết nghĩ, cho dù mọi thứ trên thế gian này quý giá đến mấy chăng nữa cũng không thể nào giúp con người thoát khỏi khổ đau, chỉ có nương tựa vào Chánh pháp, nương tựa chính mình mới có thể tạo ra hạnh phúc miên viễn.
Trở về nương tựa Tam bảo, nghĩa là bạn đang bước đi trên con đường hiểu biết và thương yêu như đức Thế Tôn đã đi. Bạn muốn bước đi trọn vẹn trên con đường cao đẹp ấy, không gì hơn bạn cần phải thực hành “có ý, có tứ” trong mọi lúc mọi nơi. Dù làm bất cứ việc gì bạn cũng nên chú tâm vào công việc đó (ý), và quan sát rõ ràng những gì đang xảy trong hiện thực (tứ). Nghĩa là bạn phải rõ biết mọi hoạt động và trạng thái của thân tâm mình trong thực tại đang là.
Ví dụ, khi thực tập Yoga hay Thái cực quyền bạn cần phải nhận diện rõ toàn cơ thể của mình đang đứng lên và ngồi xuống, quay qua trở lại đồng thời kết hợp với hơi thở vào, hơi thở ra thì khả năng tập luyện ấy sẽ đem lại kết quả tốt đẹp như bạn mong muốn. Trong khi lái xe cũng vậy, bạn cần phải quan sát rõ ràng các diễn biến đang xảy ra trên đường đi, để tránh những tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra. Nếu như trong khi lái xe mà bạn thiếu ý tứ thì rất nguy hiểm cho bản thân cũng như cho kẻ khác. Và hành động bất cẩn ấy sẽ bị mọi người xung quanh chỉ trích rằng: “sao anh chạy xe gì vô ý tứ quá vậy”!
Nghĩa là, hai bàn tay và con mắt của bạn vẫn đang hoạt động ở đây, nhưng cái tâm thì rong ruổi phiêu lưu một nơi khác chứ không có mặt trong khi lái xe.
Thật rõ ràng, khi con người sống trong mê mờ và lãng quên thực tại thì sẽ tạo ra không biết bao nhiêu là khổ đau cho chính bản thân và cho kẻ khác. Trái lại, nếu bạn sống có tỉnh thức thì không làm tổn thương cho bất cứ một ai. Do đó, để mỗi việc làm, lời nói và sự suy nghĩ của mình đem lại lợi ích cho bản thân và cho cuộc đời này, bạn cần phải thắp sáng “ý tứ” trong mỗi giây mỗi phút, và đây cũng chính là ý nghĩa thâm sâu, thiết thực nhất của việc quy y Tam bảo.
Ông ấy cần tôi
Cô y tá
nọ hướng dẫn một chàng thanh niên với vẻ mặt hốt hoảng âu sầu tới bên giường
bệnh của ông già .
Cô nói : ”Ông ơi! Con trai ông đã tới đây này!”
Cô phải nhắc lại nhiều bận thì ông già bệnh nhân mới mở mắt ra nhìn. Ông bị ảnh hưởng thuốc mê và cơn đau nên chỉ nhìn thấy lờ mờ người thanh niên đứng bên bình dưỡng khí ở đầu giường. Ông giơ tay quờ quạng nắm lấy bàn tay người thanh niên, siết chặt, không rời tay ra như cần một sự an ủi.
Cô y tá lăng xăng mang một chiếc ghế lại gần giường bệnh cho người thanh niên ngồi. Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn.
Người bệnh già thì chẳng nói được câu gì, chỉ biết nắm chặt lấy bàn tay người thanh niên.
Sáng ngày ra, người bệnh thở hắt ra và chết. Người thanh niên bùi ngùi đặt cái bàn tay bất động nọ xuống bên giường và đi báo tin cho cô y tá.
Trong khi cô ý tá làm thủ tục giấy tờ, người thanh niên tần ngần đứng bên cạnh. Khi cô làm xong thủ tục, cô ngỏ lời chia buồn với chàng thanh niên thì chàng này hỏi cô rằng: ”Ông ấy là ai vậy? tên là gì?”
Cô y tá ngạc nhiên: ”Tôi tưởng ông ta là cha anh?” Chàng thanh niên trả lời: ”Không, ông ta không phải là cha tôi, tôi chưa hề gặp ông ta bao giờ, tôi vào thăm người bạn có lẽ cùng họ, nên cô dẫn tôi nhầm tới đây.”
Cô y tá kêu lên: “Ổ, thế sao anh không cho tôi biết khi tôi dẫn anh tới đây!”
Chàng thanh niên nọ chậm rãi: “Khi tôi được biết ông ta bệnh nặng khó qua khỏi mà ông ta lại đang mong mỏi sự có mặt người con trai chưa tới được. Ông ta đã yếu quá, cũng không nhận ra được ai cả, tôi cảm thấy ông ta rất cần tôi nên tôi ở lại cũng có sao đâu!”
Cô nói : ”Ông ơi! Con trai ông đã tới đây này!”
Cô phải nhắc lại nhiều bận thì ông già bệnh nhân mới mở mắt ra nhìn. Ông bị ảnh hưởng thuốc mê và cơn đau nên chỉ nhìn thấy lờ mờ người thanh niên đứng bên bình dưỡng khí ở đầu giường. Ông giơ tay quờ quạng nắm lấy bàn tay người thanh niên, siết chặt, không rời tay ra như cần một sự an ủi.
Cô y tá lăng xăng mang một chiếc ghế lại gần giường bệnh cho người thanh niên ngồi. Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn.
Người bệnh già thì chẳng nói được câu gì, chỉ biết nắm chặt lấy bàn tay người thanh niên.
Sáng ngày ra, người bệnh thở hắt ra và chết. Người thanh niên bùi ngùi đặt cái bàn tay bất động nọ xuống bên giường và đi báo tin cho cô y tá.
Trong khi cô ý tá làm thủ tục giấy tờ, người thanh niên tần ngần đứng bên cạnh. Khi cô làm xong thủ tục, cô ngỏ lời chia buồn với chàng thanh niên thì chàng này hỏi cô rằng: ”Ông ấy là ai vậy? tên là gì?”
Cô y tá ngạc nhiên: ”Tôi tưởng ông ta là cha anh?” Chàng thanh niên trả lời: ”Không, ông ta không phải là cha tôi, tôi chưa hề gặp ông ta bao giờ, tôi vào thăm người bạn có lẽ cùng họ, nên cô dẫn tôi nhầm tới đây.”
Cô y tá kêu lên: “Ổ, thế sao anh không cho tôi biết khi tôi dẫn anh tới đây!”
Chàng thanh niên nọ chậm rãi: “Khi tôi được biết ông ta bệnh nặng khó qua khỏi mà ông ta lại đang mong mỏi sự có mặt người con trai chưa tới được. Ông ta đã yếu quá, cũng không nhận ra được ai cả, tôi cảm thấy ông ta rất cần tôi nên tôi ở lại cũng có sao đâu!”
SƯU TẦM
COI LAI ĐÈN DẦU
Một người nọ mù luôn hai mắt,
Bạn anh ta tặng cặp đèn pin.
Anh mù rất đỗi ngạc nhiên:
“Mắt tôi chẳng thấy, khỏi phiền tới anh.”
Anh bạn đáp: “Cũng cần đèn chứ,
Khi ra đường anh cứ giơ lên,
Đang khi đi giữa màn đêm,
Người ta nhìn thấy tránh bên kịp thời.”
Nghe có lý anh thời vui nhận,
Vừa đi xa một đoạn bất ngờ,
Có người đêm tối đụng vô,
Bực mình anh quát: “Bộ mờ mắt sao?
Đèn pin sáng giơ cao như vậy,
Sao anh không chịu thấy giùm cho?”
Người kia khi ấy phân bua:
“Đèn anh tắt tự bao giờ rồi nha!”
Nguyễn Tường Dec 31, 2010
ĐỪNG QUA LO ÂU
“Thưa sư phụ: Thế nào sống đạo,
Cách siêng năng, chu đáo, thành toàn?”
Thầy rằng: “Khi đói cứ ăn,
Khi mệt cứ ngủ, khỏi cần lo âu.”
“Điều thầy dạy người nào chẳng sống,
Chưa phải là ý rộng, nghĩa sâu.”
Thầy rằng: “Không hẳn vậy đâu,
Xem trên toàn cõi địa cầu ít ai.
Đã thực hiện như lời thầy dạy.
Mà thực ra chỉ thấy toàn là.
Mỗi ngày vừa mở mắt ra,
Tính toan, ao ước hoặc là âu lo.”
Nguyễn Tường Dec 31, 2010
THIỀN TRONG CHÉN NƯỚC
Giáo sư nọ nghe môn thiền đạo,
Gặp thiền sư tham khảo, xem qua.
Ông này mời uống nước trà,
Chiếc ly tràn đổ vậy mà chẳng ngưng.
Giáo sư nói: “Xin đừng rót nữa,
Ly đã tràn ông chớ rót thêm.”
Thiền sư khi ấy đứng lên:
“Giáo sư, tôi nhắc chớ quên ý này:
Ông đầu óc đã đầy kiến thức,
Nếu không ngay lập tức cạn đi,
Học thiền như thế ích gì,
Cũng như ông thấy chiếc ly đã tràn.”
Nguyễn Tường Dec 31, 2010
ĐỪNG VỘI KẾT ÁN AI
THUYẾT PHÁP ĐỆ NHẤT
BỒ TÁT THƯỜNG BẤT KHINH
TU THEO PHẬT LÀ GIÁC NGỘ TỰ THÂN
CHƯƠNG TRÌNH ĐI TÌM HẠNH PHÚC
KHÔNG NÊN QUÁ LO ÂU