Friday, November 7, 2025

*** Ý NGHĨA CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP

 


 Ý NGHĨA CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

 

Chấp ngã:  Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho rằng: thân xác này là thực, tâm hồn này là thực. Nhưng thực ra, thân xác tứ đại này do đất, nước, gió, lửa, tạo thành, không có gì gọi là thực. Tại sao vậy? 

 Bởi vì nếu ngày nào chúng ta không bồi dưỡng cho tấm thân, những chất từ đất sinh ra như cơm gạo, những chất như nước sữa, những chất như không khí, những chất tạo hơi ấm, thì ô hô tử vong. Ðến cuối cuộc đời, thân xác này cũng phải để lại và tan rã, cát bụi trở về với cát bụi. Có gì là thực đâu? Còn tâm hồn của chúng ta thay đổi liên miên, từ bé đến lớn, từ hôm qua đến hôm nay, từ giây phút trước đến giây phút hiện tại. Tâm hồn của chúng ta, trong kinh sách gọi là "tâm thức", không có gì gọi là thực, đó chỉ là một dòng chuyển biến, trong từng sát na, trong từng giây phút, không bao giờ ngừng nghỉ, khi con người chưa ngộ đạo.

 Trong đạo Phật, chấp thân tứ đại là mình, chấp tâm vô thường là mình, gọi là "chấp ngã". Vì vậy bản ngã mà người đời coi như là một "linh hồn vĩnh cữu", đó chỉ là "ảo tưởng" mà thôi. Chính cái ảo tưởng này là nguyên nhân của phiền não và khổ đau trong cuộc đời.

 Chấp pháp: Con người thường cho rằng mọi việc trên đời đều tồn tại vĩnh viễn. Chúc tụng nhau hạnh phúc trăm năm. Tình bạn muôn năm, tình yêu bất diệt. Cầu xin mãi mãi bình yên, không gặp nạn tai, không chuyện phiền toái. Tất cả chỉ là niềm mơ ước, mong muốn mà thôi, không phải là sự thực. Con người khi đạt được một địa vị nào đó trong xã hội, có được một sự nghiệp nào đó trên đời, thường nghĩ rằng, mong rằng, những thứ đó là miên viễn, là thường còn. Con người vĩnh viễn giữ được những điều mình đang có. Bởi vậy cho nên mới có Hoàng Thượng vạn tuế, Tổng Thống muôn năm, Chủ Tịch muôn đời, Hội Trưởng vạn niên!

 Sự thực, muôn pháp trên thế gian, muôn việc trên cõi đời, từ vật chất cho đến tinh thần đều biến chuyển đổi thay, không bao giờ ngưng. Nhứt là những thứ có hình thức, tướng mạo, lớn như quả địa cầu, dãy núi, nhỏ như trái cam, hạt cải, đều trải qua bốn giai đoạn:"sinh, trụ, dị, diệt". Nghĩa là mọi vật được sinh ra bằng cách nào đó, trụ thế được một thời gian nào đó, rồi cũng đến lúc biến dị và cuối cùng là hoại diệt. Trong đạo Phật gọi đó là "vô thường". Ở thế gian người ta gọi đó là "sự tàn nhẫn vô tình của thời gian". Mọi pháp thế gian đều không tồn tại qua thời gian. Một tòa nhà cao chọc trời kiên cố, một hệ thống xa lộ vĩ đại, tất cả chỉ còn là đống gạch vụn sắt vụn sau một cơn động đất. Một thị trấn sầm uất đông dân, nhà cửa đông đúc, tất cả chỉ còn là một khoảnh đất điêu tàn hổn độn, sau khi một cơn bão tố khủng khiếp đi ngang qua. Con người thấy đó rồi mất đó. Trên đời không có gì đáng để cho "con người tỉnh thức" phải hơn thua tranh chấp cả!

 Còn theo đuổi việc hơn thua tranh chấp, con người vẫn còn si mê, chưa thức tỉnh, cho nên không thể có cuộc sống ý nghĩa được.

 Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng".

 Nghĩa là phàm ở trên đời những gì có hình thức, tướng mạo, có thể nhìn thấy bằng cặp mắt thường, đều là hư vọng, là giả tạm, không tồn tại vĩnh viễn, kể cả cái thân xác của chúng ta hiện có.

Các câu tục ngữ như: "Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết", "Thương hải biến vi tang điền", hay "Bức tranh vân cẩu, kiếp người tang thương", chính là nghĩa đó vậy.

  Cái tâm nghĩ suy, tính toán hơn thua, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày suốt đêm, có phải thực là: chúng ta hay chăng? Sách có câu: "Người vui cảnh đẹp bao lâu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nghĩa là cùng một cảnh, nếu chúng ta có tâm sự buồn phiền áo não, không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là của chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là của chúng ta?

 Sách cũng có câu:"Tâm buồn cảnh được vui sao. Tâm an thì cảnh ngộ nào cũng an". Cùng một câu nói, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cho là: nói-đúng-nói-phải, nói-sao-cũng-được, nói-ngược-cũng-xong. Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cho là: nói-sai-nói-bậy, nói-xiên-nói-xỏ, nói-bóng-nói-gió, nói-hành-nói-tỏi, nói-quấy-nói-quá. Ðối với người thân, thương yêu trìu mến, tâm chúng ta tốt, mặc dù chưa chắc, lúc nào cũng tốt, được y như vậy. Còn như đối với, kẻ thù người oán, tâm mình không tốt, sẵn sàng gây nên, phiền não khổ đau, cho cả nhà họ. Họ càng khổ đau, nhiều đến chừng nào, mình khoái chừng đó!

 Vậy, thực sự nghĩ xem, chúng ta là người, có tâm thực tốt, hay tâm không tốt? Chẳng hạn như nếu, chúng ta đang cần, giúp đỡ khẩn cấp, khi gặp tai biến, thì viên cảnh sát, chính là ân nhân. Còn nếu chúng ta, vi phạm luật pháp, làm chuyện mờ ám, làm ăn phi pháp, bóng dáng cảnh sát, thực chẳng đáng ưa, chút xíu nào cả. Cùng một câu chuyện, chúng ta ưa thích, thì cho là đúng, ngược lại không ưa, mình cho là sai. Cái tâm thay đổi, bất thường như vậy, "thực" là chúng ta, như vậy hay sao? Bởi vậy, kinh sách có câu: "Tùy tâm biến hiện". Nghĩa là mọi sự việc trên thế gian này biến hiện như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do tâm của chúng ta biến hiện ra cả. Cái sự cảm thọ, tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không có lúc nào, giống với lúc nào, không có nơi nào, giống với nơi nào, không thời đại nào, giống thời đại nào. Do đó cho nên, "tâm thọ" thực sự, hết sức nguy hại, không đáng tin cậy, một chút nào cả.

 Do tâm tham lam, con người thọ nhận, đủ thứ vật chất, của cải tiền bạc, vinh thân phì gia, không cần biết đến, của đó chính tà, bo bo giữ gìn, cho đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt không yên. Do tâm sân hận, con người thọ nhận, đủ thứ lời nói, thiệt là khó nghe, dù vô nghĩa lý, sinh lòng thù oán, bực dọc tức tối, khó chịu bất an. Do tâm si mê, con người thọ nhận, những chuyện thị phi, phải quấy đúng sai, hơn thua tốt xấu, những chuyện thương ghét, trả thù báo oán, gặp điều bất bình, chạm chút tự ái, hăm he thưa kiện, gây bao đau khổ, phiền lụy người khác, dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều khổ nhiều, chấp nhiều mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện hiểu rất đơn giản, thực hành không dễ dàng, nhưng không phải bất khả. 

 Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Thắng lợi sinh thù oán. Thất bại chịu khổ đau. Không quan tâm thắng bại. Sống an lạc hạnh phúc", chính là nghĩa đó vậy.

Lại thêm nữa, tâm của chúng ta luôn luôn giàu sự tưởng tượng nên mới gây ra đau khổ. Có người nói ra, một câu thực là: vô-thưởng-vô-phạt, chúng ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi chuốc lấy, giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra, trong mọi cuộc sống, của mọi gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là thường xuyên. Trong cuộc nói chuyện, thảo luận đông người, thường dễ xảy ra, những chuyện mích lòng, chỉ vì câu nói, hiểu lầm nào đó, từ miệng một người, được cộng thêm với, tâm trí tưởng tượng, của các người khác. Tâm trí tưởng tượng, của vợ hay chồng, cũng thường dẫn tới, những chuyện ghen tuông, tạo nên sóng gió, làm giảm rất nhiều, hạnh phúc gia đình. Có một đám mây, ở trên không trung, lơ lửng bay qua, ánh sáng thái dương, hiện ra ngũ sắc, rực rỡ huy hoàng, con người tưởng tượng, đó là thần linh, thượng đế giáng trần, ban phước phép lành, giáng điển ứng nghiệm. Thực là quá sức, mê tín dị đoan! Do đó cho nên, "tâm tưởng" thực sự, hết sức nguy hại, không đáng tin cậy, một chút nào cả.

 Tâm trí suy nghĩ, luôn luôn tiếp nối, không ngừng không nghỉ, từ chuyện này đến chuyện khác, từ việc này đến việc khác, từ người này đến người khác, từ nơi này đến nơi khác, từ xứ này đến xứ khác, từ đời này đến đời khác, tạo thành một dòng tư tưởng, kéo dài vô cùng vô tận, gọi là tâm hành. Trong những lúc đó, tâm chúng ta có, những dòng tư tưởng, tiếp nối liên tục, chúng ta hãy thử, tìm cách dừng lại, không suy nghĩ tiếp, xem được hay không? Chắc chắn là không!

 Lúc đó, dừng nó không dễ, thì mới biết rằng: chúng ta không làm chủ được tâm hành của chính chúng ta vậy. Lúc còn khỏe mạnh như vậy, chúng ta còn không kiểm soát, không điều khiển, không làm chủ được tâm hành của chính mình. Lúc sắp lìa đời, thân thể rã rời, tứ chi đau đớn, thần kinh suy nhược, chắc chắn chúng ta, sẽ bị tâm hành, dẫn dắt đi đâu, thì đến đó vậy. Thí dụ như lúc lên giường muốn ngủ, nhưng cái tâm hành cứ lo lắng, suy nghĩ vớ vẩn vẩn vơ hoài, muốn dừng cũng không được, cứ tiếp nối liên tục, trằn trọc suốt đêm thâu, không thể nào chợp mắt được! Do đó, chúng ta nên biết: "tâm hành" chính là động cơ, dẫn dắt con người vào vòng sanh tử luân hồi, nên trong kinh sách, còn gọi là "hành nghiệp".

 Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm đẹp hay xấu, khi mắt trông thấy một hình sắc nào đó, gọi là nhãn thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm dễ nghe hay khó nghe, khi tai nghe thấy một âm thinh nào đó, gọi là nhĩ thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm dễ chịu hay khó chịu, khi mũi ngửi thấy một mùi nào đó, gọi là tĩ thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm ngon hay dở, khi lưỡi nếm thấy một vị nào đó, gọi là thiệt thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm thích hay không thích, khi thân xúc chạm một vật nào đó, gọi là thân thức. Chúng ta luôn luôn khởi vọng niệm luyến thương hay tức giận, khi ý nghĩ nhớ tới một chuyện nào đó, gọi là ý thức. Ðể rồi những vọng niệm như vậy, gọi chung là lục thức, được đưa đến kho tàng tâm thức, trong kinh sách gọi là tàng thức, là nơi chứa đựng những chuyện vui hay buồn, thương hay ghét, suốt cả cuộc đời của mình. Chính những vọng niệm, vọng thức này là nguồn gốc của khổ đau. Tại sao vậy?

 Bởi vì, những vọng niệm như: đẹp hay xấu, dễ nghe hay khó nghe, dễ chịu hay khó chịu, ngon hay dở, thích hay không thích, đâu có phải lúc nào cũng tuyệt đối đúng hết đâu. Thí dụ như: cùng một con người, chúng ta khen đẹp, người khác chê xấu, sanh ra mích lòng, đưa đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng đánh nhau, tức nhiên khổ đau. Thí dụ như: cùng một món ăn, lúc mới bắt đầu, vì quá đói bụng, chính mình khen ngon, ngon đáo ngon để, đến lúc no rồi, thì lại thấy dở, hết còn ngon miệng. Cùng một món trái cây như sầu riêng, một món ăn như khô mắm chẳng hạn, người khen ngon thơm quá xá, thấy là phát thèm, người chê hôi thúi, khó nuốt khó ngửi, tức nhiên sanh ra, tranh cãi với nhau, đưa đến khổ đau, tạo ra phiền não. Như vậy, "tâm thức" hay các vọng niệm, vọng thức đó chính là nguồn gốc của sự khổ đau vậy.

Cái thân tứ đại gọi là hình sắc, và vọng tâm gồm có: tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức, nói chung gọi là "ngũ uẩn". Nếu chúng ta "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không", tức là quán sát, chiếu soi, xem xét, thấu hiểu "ngũ uẩn" giai không, nghĩa là không thực, không thường còn, không vĩnh viễn, không cố định, không đáng để chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ "độ nhất thiết khổ ách", tức là độ được, qua được hết thảy mọi khổ ách trên đời. Chúng ta sẽ sống một cuộc đời an lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ gì cả. Lúc đó, lòng tự ái của chúng ta, tức là sự chấp ngã, giảm bớt được bao nhiêu, chúng ta được an vui lợi lạc trong cuộc sống được bấy nhiêu. Khi chúng ta thực sự "xét thấy năm uẩn đều không", khổ nạn nào cũng qua khỏi, tức là chúng ta đã hành thâm bát nhã. Chứ không phải mỗi ngày đọc tụng đều đều, lưu loát, trơn tru, rào rào, rầm rầm, gọi là hành thâm bát nhã đâu, đó chỉ là trả bài thuộc lòng mà thôi. Hỏi rằng như vậy có ích lợi gì không? Câu trả lời: Tùy! Tại sao vậy? Bởi vì con người vẫn chưa qua khỏi được các khổ nạn.

* * *

Chúng ta đã hiểu qua: thế nào là chấp thân và chấp tâm, nói chung là "chấp ngã". Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu: Thế nào là "chấp pháp"? Chấp pháp nghĩa là: đối với tất cả, các pháp trên đời, bao gồm mọi sự, mọi việc thế gian, con người chấp chặt, ý kiến cá nhân, thành tích khả năng, suy nghĩ hiểu biết, kiến thức sở học, kinh nghiệm lão luyện, không muốn thay đổi, không muốn cải thiện, không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, không muốn nghe ai, bịt cả hai tai, chỉ mở cái miệng. Thậm chí biết rằng, mình đã nghĩ sai, làm sai nói sai, tin sai hiểu sai, cũng vẫn chấp chặt !!!

 Có câu chuyện hai anh chàng vào rừng kiếm củi. Ngày kia, cả hai mỗi người bó được một gánh củi đem về. Trên đường về, hai anh chàng gặp được quế. Anh thứ nhứt bỏ củi, gánh quế đem về vì biết quế có giá trị hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh thứ hai tuy cũng biết như vậy, nhưng chấp chặt cái công phu gánh củi từ sớm đến giờ, không chịu thay đổi. Ở trên thực tế, lắm khi con người, biết là sai đường, biết làm sai việc, biết nói lỡ lời, suy nghĩ tầm bậy, nhưng đã lỡ rồi, cho nó lỡ luôn, sửa lại quê quá, xin lỗi mất mặt, chạm tự ái quá, nhứt định không được, tới-đâu-thì-tới, đâu ngán ai chứ !!!

 Trong lòng cố chấp, nặng nề như vậy, thường dẫn chúng ta, đến chỗ đấu tranh, bắt đầu bằng lời, rồi tới võ lực, tức nhiên dẫn đến, phiền não khổ đau. Những người có thêm, một chút học thức, trong lòng cố chấp, tăng thêm một chút, họ ít khi chịu, nhìn thấy sự thực, ít khi chịu nhận, lỗi lầm của mình, ít khi chịu nhịn, nhường bước người khác. Trong kinh sách gọi là "sở tri chướng". Nghĩa là cái sở tri, cái kiến thức, sự hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay, thường làm chướng ngại, ngăn đường cản lối, không cho chúng ta, nhận ra lẽ phải, thấu suốt chân lý.

Chân lý không lệ thuộc tôn giáo nào, giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào, thế lực nào, thời đại nào, không gian nào. Chân lý bất biến, bất tùy phân biệt, chính là nghĩa đó vậy.

 

Có câu chuyện một học giả đến xin hỏi đạo với một thiền sư. Thiền sư mời học giả ngồi, rồi mang trà ra tiếp đãi. Thiền sư chậm rãi, rót trà ra tách, để trước mặt khách, tiếp tục rót trà, đến khi tràn ra, vẫn không chịu dừng. Học giả thấy vậy, không còn chịu được, bèn lên tiếng hỏi, lý do tại sao. Thiền sư từ tốn đáp rằng: Ngài đến đây với đầy ắp kiến thức trong tâm trí, đâu còn chỗ để thu nhận lý thiền, lẽ đạo. Cũng như tách trà đã đầy, không còn chỗ nhận thêm nữa vậy.

Trong cuộc sống, chúng ta chứa đầy ắp những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, trong tâm trí, cho nên khó mà chấp nhận được bất cứ ý kiến nào của người khác, khó mà nhận được thế nào là chánh kiến. 

Trong cuộc sống vợ chồng, ai cũng chấp chặt ý kiến của mình là đúng, không chịu nghe giải thích, không chịu bàn luận với nhau, làm sao gia đình có được hạnh phúc! Lại đi nghe lời, ông bà thầy bói, bèn đổi cái cửa, bèn sửa cái bếp, thêm xoay cái bàn, lại trở cái giường, đi phá cái tường, xây thêm tấm vách, thực là lãng nhách, tốn công phí sức, hao tiền tốn của, một cách vô ích. Ðiều cần phải sửa, chính là cái "lòng cố chấp" của chúng ta, mà thôi.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

 

 

Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí

TKN Thích Nữ Chân Liễu

Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới. 

Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:

“Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.

Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.

* Lục độ ba la mật gồm có:

-        Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.

-        Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .

-        Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.

-        Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.

-        Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.

-        Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.

*Bát chánh đạo gồm có:

-   Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.

-   Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.

-   Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.

-   Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.

-   Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.

-   Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.

-   Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.

-   Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động. 

Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.                                          

Cúng dường Ðức Pht Thích Ca:

Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.

      Tham ái sanh ưu tư            

      Tham ái sanh sợ hãi           

      Ai giải thoát tham ái            

      Không ưu, không sợ hãi.

            (Kinh Pháp Cú)    

 

      Tâm từ thắng nóng giận

      Tâm thiện thắng ác hung

      Tâm thí thắng tham lam

      Tâm chơn thắng dối trá.

            (Kinh Pháp Cú) 

Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.

Cúng dường Đức Pht Ða Bảo:

 Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát  nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.

 Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng. 

Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.

 Hiểu rõ chân lý nhân quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự tại.                 

                                     Ða dục vi khổ

                                      Sanh tử bì lao

                                      Tùng tham dục khởi

                                      Thiểu dục vô vi

                                      Thân tâm tự tại.      

                                                (Kinh Bát Ðại Nhân Giác)

Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.

Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.

. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.

. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.

. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.

. Nạn xiềng xích:     Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích không trói buộc.

. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.

Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:

Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.

 Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []                                                                                                                                                                    

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật                    
 

 

BÓI TUỔI HẠP.

-       Mẹ ơi. Con thật là khổ vì ông chồng nhiều lắm!
-       Tại sao vậy?
-       Ông ấy luôn gây gỗ với con, khi con thích mua sắm.
Vậy mà ngày xưa Mẹ bảo thầy bói nói con với ổng hạp tuổi.
-       Thì thầy bói nói con với chồng hạp tuổi, chứ có bói hai con hạp
mua sắm đâu nè.
--------------------------------------------------------
CĂN TU

-       Thưa Thầy!  năm mới xin Thầy xem dùm con có căn tu không vậy?
-       Ừ thì ai cũng vậy muốn tu, tức là có căn tu rồi đó.
-       Nhưng mà con làm Bác sĩ phải mỗ xẻ thú trong phòng thí nghiệm.
Mỗi ngày đều phải sát sanh thì làm sao đây?
-       Ôi! Thật là tội lỗi…tội lỗi, như vậy là không có căn tu, cũng chưa biết tu.
-       Vậy con phải làm sao đây?
-       Bỏ job đó liền lập tức.
-       Thôi rồi! Thế thì cả nhà vợ con chắc chết đói rồi, Thầy ơi cứu con!
-------------------------------------------------------------
LÀM ĐẸP

-       Chị hai có thấy em của chị đẹp hơn những người bạn của em không vậy?
-       Đẹp! nhưng đẹp hay không quan trọng là đẹp nết ở bên trong.
-       Ở bên trong đâu có ai thấy được, trong khi đẹp ở ngoài thì so sánh là thấy liền.
-------------------------------------------------------
TẤM LÒNG SƯ HUYNH ĐỆ
-       Đệ thường có một tật xấu là lúc ngủ ngáy lớn lắm.
Sư huynh có thể nhét gòn vào lỗ tai, thì khỏi phiền Tiểu đệ.
-       Không cần phải lo nhiều, ngủ tập thể, đèn thì tối nhiều tiếng ngáy,
Không biết là ai đâu. Vả lại nếu phiền vì chuyện nhỏ như vậy,
thì còn xứng đáng làm Sư huynh không?!!
--------------------------------------------------------------
CHIẾC LÁ KHOAI 

-       Hồi nảy giờ cô giảng cho con nghe nhiều lắm, con còn nhớ gì không?
Con có thể nhắc lại một vài điều mà con nhớ được không?
-       Thưa cô, tâm con như chiếc lá khoai, đổ bao nhiêu nước, ra ngoài bấy nhiêu.
-       Trời !
---------------------------------------------------
CÚNG CAFÉ

-       Em thương! Nếu như mai sau anh có chết đi, nhớ anh em chỉ cần cúng anh một ly
Café đen là đủ rồi.
-       Không, còn thêm một tô hủ tiếu và một ổ bánh mì thập cẩm nữa.
-       Chi mà phải tốn kém nhiều như vậy?
-       Anh không ăn được, thì em sẽ ăn thế anh chứ.
-       À! Thì là vậy, anh hiểu rồi.
--------------------------------------------
AI ĐÓI?

-       Thưa Thầy! Chồng con khi còn sống rất thích ăn xôi.
Như vậy con cúng dĩa xôi anh ấy có ăn được không?
-       Cúng có một dĩa xôi thôi sao? Con còn nhớ anh ấy thích gì nữa không?
-       Dạ hết rồi.
-       Nếu con cúng chỉ có một dĩa xôi thôi, thì anh ấy là ma đói rồi !
Chùa cũng đói luôn !