LÀM SAO GẶP ĐƯỢC PHẬT?
TK Thích Chân Tuệ
Qua hình tướng tìm Phật
Qua âm thanh tìm Phật
Làm vậy là sai đường
Làm sao gặp được Phật?
Qua âm thanh tìm Phật
Làm vậy là sai đường
Làm sao gặp được Phật?
Chúng ta đã từng gặp Phật chưa? Nếu chưa,
chúng ta làm sao gặp Phật? Có phải đợi sau khi chết rồi, vãng sanh tây phương
cực lạc, mới gặp được Phật chăng? Có phải chỉ có Phật Tử mới gặp được Phật
chăng?
Hoặc có phải chăng: tất cả
chúng ta có thể gặp Phật, ngay trên thế gian này, ngay trong cõi đời này, bất
luận người đó là Phật Tử, hay không là Phật Tử, bất luận người đó tại gia hay
xuất gia? Dường như ai ai cũng có các thắc mắc này, vậy chúng ta hãy lần lượt
cùng nhau tìm cách trả lời dựa theo giáo lý của đạo Phật.
Hầu như mọi người Phật Tử
đều biết lịch sử Ðức Phật Thích Ca: Ngài đản sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni, được gọi là
Thái Tử Tất Ðạt Ða, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, trị vì vương
quốc Ca Tỳ La Vệ, thuộc nước Ấn Ðộ bây giờ. Ngài lớn lên, cưới vợ, sinh con,
cũng như bao nhiêu con người khác trên thế gian. Rồi nhân những chuyến ra khỏi
hoàng cung, nhận thấy các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử, của kiếp con người, cho
nên Ngài quyết tâm xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát và thành đạo dưới cội
bồ đề. Sau đó, Ngài chuyển pháp luân, thuyết pháp cứu độ chúng sanh trong 50
năm, cuối cùng nhập niết bàn ở vườn Ta La. Như vậy, Ðức Phật Thích Ca đã nhập
niết bàn, chúng ta đi tìm Phật ở đâu, làm sao chúng ta gặp được Phật?
Thực ra, chúng ta chẳng
cần đi tìm Phật ở đâu xa, chẳng cần phải qua Ấn Ðộ, hay vào chùa mới gặp Phật.
Phật luôn luôn ở trong cuộc đời, ngay trên thế gian này, hiện hữu khắp nơi,
nhưng chúng ta không thấy, vì chúng ta chỉ nhìn đời bằng đôi mắt thịt, mà quên
xử dụng con mắt trí tuệ, để quan sát những gì tiềm ẩn bên trong, hoặc ý nghĩa
của những việc làm. Nơi các tôn tượng chư Phật, con mắt trí tuệ được tượng
trưng bởi viên ngọc quí ở giữa chặn mày, luôn luôn chiếu sáng, mang ý nghĩa:
tuệ đăng thường chiếu, tức là ngọn đèn trí tuệ thường chiếu sáng, còn đôi mắt
thịt, luôn luôn khép lại, không duyên theo cảnh trần. Tuệ đăng thường chiếu
nghĩa là con người sống luôn luôn tỉnh thức, không bị mê mờ, không bị dục lạc
thế gian lôi cuốn, sống trong thế gian, nhưng không phiền lụy, cũng chẳng khổ
đau. Chúng ta có thể tìm thấy Phật qua sự sống trong tất cả mọi loài chúng
sanh. Sự sống đó bàng bạc trong khắp không gian và thời gian, không hạn hẹp
trong trăm năm của một kiếp con người.
* * *
Trong cuộc sống hằng ngày,
khi tiếp xúc giao thiệp với mọi người chung quanh, chúng ta thường nhìn người
đời bằng cặp mắt thịt, trong kinh sách gọi là nhục nhãn, cho nên chỉ nhìn thấy
được hình tướng bên ngoài của con người, phân biệt nam nữ, cao thấp, đẹp xấu,
già trẻ, lớn bé, giàu nghèo, mập ốm. Chính vì con người có cái nhìn phân biệt
như vậy, cho nên cảm thấy phiền não và khổ đau nhiều hơn là an lạc và hạnh
phúc. Tại sao vậy?
Bởi vì, khi có cái nhìn
phân biệt như vậy, con người chỉ thấy chung quanh toàn là chúng sanh, cho nên
khởi tâm thương ghét, làm cho cuộc sống đảo điên, tâm trí bất an. Chẳng hạn như
khi gặp người nào đẹp đẽ, hạp nhãn, hay gặp vật gì quí giá, hiếm hoi, thì sanh
lòng tham lam, ưa thích ngắm nhìn, muốn chiếm hữu làm của riêng. Toại nguyện
thì hả hê, thích thú, bằng không được như ý, thì sanh tâm oán thù, ghét bỏ, bực
dọc, tức tối. Chẳng hạn như gặp người nghèo hèn, ít học, thì sanh tâm khinh
khi, kỳ thị, rẻ rúng, còn gặp người giàu sang, học thức, thì thèm muốn, ước mơ,
nịnh bợ. Chẳng hạn như gặp người mập ú thì cười, gặp người gầy ốm thì chê. Con
người thường có ước mơ muốn được bình yên, nhưng tâm trí cứ chạy theo cảnh trần
đời như vậy, lăng xăng lộn xộn cả ngày, suốt tháng, quanh năm, làm sao cuộc
sống bình yên, an vui cho được?
Trong Kinh Kim Cang, Ðức
Phật có dạy: "Ly nhứt thiết tướng, thị danh thực tướng".
Nghĩa là: Khi nào lìa bỏ
được tất cả các hình tướng bên ngoài, không chấp vào nhân dáng thế này thế
khác, chúng ta mới có thể nhận ra thực tướng của tất cả mọi người. Thực tướng
đó là gì? Thực tướng đó chính là con người chân thật của tất cả mọi người trên
thế gian này. Con người chân thật đó đồng nhất, không khác, không phân biệt nam
nữ, già trẻ, lớn bé, màu da, sắc tộc, quốc gia, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa,
giai cấp, xuất xứ, kiến thức, học lực, bằng cấp.
Mọi người đều có thực
tướng đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên
hình tướng bên ngoài có khác.
Chẳng hạn như: Người tham
gian thì cặp mắt láo liên, đảo điên, đảo qua, đảo lại. Người sân hận thì cặp
mắt trợn trừng, tóe lửa, dữ dằn. Người si mê thì cặp mắt lờ đờ, khờ khạo.
* Tu theo đạo Phật, không
phải chỉ có, cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, cầu an cầu siêu, cầu được
bình an, cầu sang cực lạc, cầu đủ thứ chuyện, cầu cho sung sướng, biểu diễn
hình tướng, không còn gì khác! Không phải như vậy!
* Tu theo đạo Phật là phải
thúc liễm thân tâm, chuyên cần chăn trâu, con trâu tâm ý, đừng để chạy rong,
ngông cuồng phá phách, giẫm đạp ruộng người, húc đàng đông xông đàng tây, từng
giây từng phút.
* Tu theo đạo Phật là phải
tìm ra con người chân thật, hay giác ngộ thực tướng của chính mình. Thực tướng
đó bất sanh bất diệt. Ngộ được thực tướng thì thoát ly sanh tử luân hồi, theo
đúng lời dạy của tam thế thập phương chư Phật. Còn con người bằng xương bằng
thịt, trong kinh sách gọi là tấm thân tứ đại, chỉ tồn tại hơn kém trăm năm là
nhiều!
Trong khi bình thường, hai
người tánh tình giống nhau, hòa đồng, nhã nhặn, vui vẻ, lịch sự, không khác.
Khi có biến cố xảy đến, người biết tu tâm dưỡng tánh, giữ gìn được sự bình tĩnh
thản nhiên, không khởi tâm tham lam, không khởi tâm sân hận, không khởi tâm si
mê. Nếu người nào hoàn toàn giữ gìn được bản tâm thanh tịnh, trong mọi hoàn
cảnh trên thế gian, trước những bát phong của cuộc đời, dù được hay mất, dù
khen hay chê, dù vinh hay nhục, dù sướng hay khổ, tâm tánh vẫn luôn luôn bình
tĩnh thản nhiên, luôn luôn mỉm nụ cười an nhiên tự tại, người đó chính là một
vị Phật.
Một vị Phật không phải từ
trên trời giáng xuống, không phải từ lòng đất chui lên. Một vị Phật tùng địa
dũng xuất, như trong Kinh Pháp Hoa dạy, nghĩa là từ nơi tâm địa của mỗi con
người chuyển hóa mà thành, chuyển hóa từ xấu xa thành tốt đẹp, chuyển hóa từ
tâm tham sân si ô nhiểm, trở về bản tâm vốn thanh tịnh. Một vị Phật thành đạo
từ nơi con người biết tu tâm dưỡng tánh, đi đúng Chánh Ðạo, hành đúng Chánh Pháp.
Người nào chưa đạt được hoàn toàn như vậy, chính là những người đang trên bước
đường tu tập, công phu được bao nhiêu, người đó được an lạc và hạnh phúc bấy
nhiêu. Chứ không phải van xin cầu nguyện mà đặng đâu!
Theo truyền thuyết, khi
Thái Tử Tất Ðạt Ða đản sanh, có hai vị long vương đến phun nước tắm cho ngài.
Một vị phun dòng nước nóng. Một vị phun dòng nước lạnh. Ðiều này có ý nghĩa
thâm sâu như sau: cũng như Thái Tử Tất Ðạt Ða, người nào trên thế gian này,
chịu đựng nổi sức mạnh của hai dòng nước, kham nhẫn nổi sức nóng lạnh, tượng
trưng cho những áp lực thường xuyên và sự đối nghịch của cuộc đời, chẳng hạn
như: thịnh suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc, nói chung là bát phong, thì người đó
chính là một vị Phật trong tương lai.
Còn đại đa số người đời,
khi có biến cố xảy ra, tâm tham lam liền khởi lên, không thể dừng được, luôn
luôn nghĩ đến những việc tranh giành quyền lực, lợi mình hại người, xúi người
hại nhau, bất chấp thủ đoạn, thưa gửi kiện tụng, sang đoạt tài sản, chiếm hữu
bản quyền, giựt hụi quịt nợ. Nếu mục tiêu là bạc triệu đô la, con người càng
đối xử với nhau ghê rợn hơn, khủng khiếp hơn, chẳng còn kể quan hệ cha con,
chồng vợ, bè bạn, thầy trò, anh em, thân bằng quyến thuộc gì hết, mạng sống của
con người, của chính bản thân bị coi rẻ như bèo! Ðồng bào, đồng bạn, đồng chí,
đồng đội, đồng đạo, đồng hương, đồng nghiệp, đồng ngũ, chẳng có giá trị gì cả,
chẳng có nghĩa lý gì cả. Chỉ có đồng tiền là trên hết, là vạn năng, có đủ năng
lực xô đẩy, sai khiến con người vào vòng tội lỗi hết sức dễ dàng. Cửa thiên
đàng khép lại, cửa địa ngục mở rộng kể từ đây!
Khi có biến cố xảy ra, dù
chỉ một lời nói vô thưởng vô phạt, vô ý vô tứ, hay một cử chỉ nhỏ nhặt, nhưng
va chạm tự ái, tổn thương mặt mũi của con người, tâm sân hận liền khởi lên,
không thể dừng được, con người liền nghĩ đến chuyện trả thù, báo oán, làm đủ
mọi cách, khiến cho kẻ thù, người mình không ưa, sống không được yên, chết cũng
không xong, ngả nghiêng điêu đứng, tạo dựng chuyện ác, khiến người tội oan,
tiêu tan danh dự, te tua tơi tả, thì mới hả dạ, mới thỏa tấc lòng, tâm địa
chúng sanh, phàm phu tục tử, sâu hiểm ác độc, của một con người. Khi tam bành
lục tặc nổi cơn lên, dù có phải đại náo thiên cung, lật tung nhà người, con
người cũng dám làm, không cần biết hậu quả ra sao! Bởi vậy cho nên, có nhiều
người đánh mất hạnh phúc trong tầm tay, hay đánh mất người cộng tác tài năng
đáng tin cậy, chỉ vì những cơn sân không kềm chế được như vậy.
Khi có biến cố xảy ra,
người ta không còn hợp tác, không còn qua lại với mình, mình liền ngậm máu phun
sau lưng người, không kể người cười miệng mình dơ, đâm bị thóc thọc bị gạo, bêu
riếu đàm tiếu đủ điều, vạch lá tìm sâu, bới bèo ra bọ, chứng nào tật nấy, không
bao giờ chừa! Cũng do tâm si mê xui khiến, con người tin chuyện nhảm nhí, mê
tín dị đoan, van xin thượng đế, cầu nguyện thần linh, tìm sông lội suối, nước
kém vệ sinh, cho là nước thánh, trị được bá bệnh, cầu gì được nấy, cũng mang về
uống, dù cho người đó, có nhiều bằng cấp, dù thấp hay cao, ở ngoài thế gian,
hay trong nhà đạo!
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức
Phật có dạy: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh". Nghĩa là:
"Tất cả mọi chúng sanh đều có tánh giác".
Tất cả mọi người đều có
tánh giác, sáng suốt đồng nhau, không khác, trong kinh sách gọi là Chân Tâm hay
Phật Tánh, nhưng chỉ vì nghiệp lực khác nhau, tâm tham sân si khác nhau, cho
nên bị phiền não khổ đau cũng khác nhau, hình tướng bên ngoài cũng khác nhau.
Chẳng hạn như mặt trăng
lúc nào cũng sáng tỏ, không khác, nhưng đêm nào có nhiều mây đen, chúng ta
trông thấy mặt trăng mờ nhạt nhiều hơn. Chẳng hạn như mặt biển lúc sóng yên gió
lặng, thanh bình, rộng rãi, bao la, trông xa, thấy rộng, mênh mông, bát ngát,
nhưng lúc cuồng phong nổi lên, sóng to gió lớn, bầu trời đen kịt, không còn
trông thấy được gì cả. Mặt trăng sáng tỏ, mặt biển thanh bình, tượng trưng cho
bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người. Ðó cũng chính là con người chân thật
hay Chân Tâm Phật Tánh của tất cả mọi người. Mây đen hay sóng to gió lớn, tượng
trưng cho những phiền não khổ đau, che lấp từng phần, hay che khuất hoàn toàn,
tâm trí con người không còn sáng suốt trọn vẹn nữa.
Như vậy, câu hỏi tìm Phật
ở đâu, làm sao gặp Phật, thật là quá dễ, ai cũng có thể trả lời được. Trước
hết, Phật có nghĩa là Ðức Phật Thích Ca, vị Phật có thực trong lịch sử, sinh ra
ở Ấn Ðộ, tu hành và thành đạo, cách đây hơn 2500 năm, ngay trên thế gian này, ở
ngay cõi ta bà này, không phải cõi nào khác, không phải tây phương cực lạc. Ðó
là câu trả lời gần nhứt, đơn giản nhứt, rõ ràng nhứt.
Tuy nhiên, trong kinh sách
có câu: "Phật biến nhứt thiết xứ", nghĩa là Phật có ở khắp mọi nơi,
Phật ở chung quanh chúng ta, nhưng chúng ta không hiểu biết, không nhận ra đó
thôi. Ðó là nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm của chữ "Phật". Ðó là con
đường thực tế, giúp đỡ cuộc đời được nhiều ánh sáng giác ngộ và giải thoát,
cuộc sống được nhiều an lạc và hạnh phúc, con người được nhiều an nhiên và tự
tại, giảm bớt phiền não và khổ đau.
Trong kinh sách cũng có
câu: "Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt". Nghĩa là: "Tâm,
Phật và chúng sanh, cả ba không khác, không sai biệt".
Phật và chúng sanh bổn
nguyên tánh thường rỗng lặng, trong kinh sách gọi là không tịch. Tâm của người
nào không chất chứa bất cứ hình ảnh của chúng sanh trong ba cõi, sáu đường,
hoàn toàn trống rỗng, tĩnh lặng, tâm người đó chính là tâm Phật.
Chư Tổ cũng có dạy:
"Phật tức Tâm, Tâm tức Phật", chính là nghĩa đó vậy.
Chúng ta có thể tìm thấy
hình ảnh Phật, qua các vị chân tu thực học, giới đức tròn đầy, là điểm tựa, là
chỗ quy ngưỡng, để chúng sanh tìm được sự an lạc khi gần gũi. Chúng ta có thể
tìm thấy Phật ở khắp nơi trên thế gian này, chỗ nào có tình thương ngự trị, có
từ bi hỷ xả hiện tiền, là có Phật ở ngay nơi đó. Bất cứ người nào, dù không là
Phật Tử, dù là Phật Tử tại gia hay xuất gia, mà trong một khoảng thời gian nào
đó, phát tâm bồ đề, khai mở Chân Tâm, thực hành hạnh lợi tha, vì người quên
mình, thể hiện bốn tâm lượng rộng lớn: từ bi hỷ xả, thì ngay trong giây phút
đó, người ấy đang sống với tâm Phật, như một vị Phật.
Nhưng sau phút giây giác
ngộ đó, người ấy trở lại cuộc sống tầm thường, thì tâm Phật lại tiềm ẩn, chờ cơ
hội khác để phát huy. Phật là con người giác ngộ trọn vẹn và vĩnh viễn, lúc nào
cũng tỉnh thức và sáng suốt. Chúng sanh khác Phật ở chỗ: chỉ lóe sáng trong
giây phút, rồi lại chìm đắm trong bóng tối vô minh. Tại sao vậy? Bởi vì, con
người không đủ sức vượt khỏi tam giới, không đủ sức ra khỏi căn nhà lửa, không
đủ sức chống cự sức mạnh của con trâu tâm ý, nghĩa là con người bị "nghiệp
thức che đậy" và thường hay "biết mà cố phạm"!
Ðể có cái nhìn thực tiển
và có phương pháp thực hành, trong cuộc sống hằng ngày của người Phật Tử, tại
gia hay xuất gia, Chư Tổ có dạy:
"Chúng sanh nhìn Chư
Phật như chúng sanh, cho nên phiền não khổ đau.
Chư Phật nhìn chúng sanh như Chư Phật, cho nên Niết bàn tự tại".
Chư Phật nhìn chúng sanh như Chư Phật, cho nên Niết bàn tự tại".
Nếu hiểu biết một cách
thấu đáo, một cách tường tận lời dạy này, chúng ta liền biết làm sao gặp Phật,
hay tìm Phật ở đâu? Chúng ta thường hay nghĩ rằng: Phật ở Tây phương cực lạc,
Phật ở trong chùa, Phật ở trong kinh sách, Phật ở trong các bức tượng bằng gổ,
bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng, hay bằng tranh vẽ. Còn chung quanh toàn là
chúng sanh tất cả! Chính bởi cái nhìn, cái hiểu biết, cái suy nghĩ, cái quan
niệm như vậy, cho nên con người gặp nhiều phiền não khổ đau, không sao tránh
khỏi, không bao giờ dứt.
Con người không biết rằng:
chính mình có Chân Tâm, Phật Tánh, và mọi người chung quanh cũng y như vậy,
không khác. Con người đeo cặp mắt kính chúng sanh, tức nhìn đời qua tâm vọng
động, cho nên nhìn ai cũng thấy chỉ là chúng sanh, nhìn ai cũng chỉ thấy tật
xấu của họ, nhìn ai cũng thấy đáng ghét, nhìn ai cũng thấy đáng đề phòng, nhìn
ai cũng thấy muốn xa lánh, nhưng không bao giờ, nhìn lại chính mình, xem tốt
hay xấu, cho nên gặp nhiều, phiền não khổ đau, rồi chờ khi chết, lết về tây
phương, nương về cực lạc, để tìm gặp Phật, làm sao gặp được?
Còn chư Phật và những
người giác ngộ, biết tu tâm dưỡng tánh, đeo cặp mắt kính thanh tịnh, nhìn đời
bằng bản tâm thanh tịnh, nhìn ai ai chung quanh cũng thấy được họ có Chân Tâm,
Phật Tánh, nhìn ai ai chung quanh cũng hiểu biết họ là vị Phật sẽ thành trong
tương lai, gần hay xa tùy theo công phu tu tập của mỗi người, nhìn ai ai chung
quanh cũng hiểu biết họ có những điều hơn mình, đáng cho mình học hỏi, nhìn ai
ai chung quanh cũng thấy được con người chân thật, không phải con người hiện
tướng tham đáng ghét, không phải con người hiện tướng sân dữ dằn dễ sợ, không
phải con người hiện tướng si khờ khạo ngu ngơ. Cho nên chư Phật và những
người giác ngộ, biết tu tâm dưỡng tánh, luôn luôn an nhiên tự tại, bình tĩnh
thản nhiên, chứng được cảnh giới niết bàn hiện tiền. Chúng ta có giác ngộ, mới
có cuộc sống an lạc và hạnh phúc như vậy, mới giải thoát khỏi phiền não và khổ
đau. Cuộc đời có ý nghĩa, cuộc
đời đáng sống, kể từ đây!
* * *
Tóm lại, trong Kinh Kim
Cang, Ðức Phật có dạy:
"Phàm sở hữu tướng,
giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai".
Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai".
Nghĩa là: Phàm ở trên thế
gian này, tất cả những gì có hình tướng đều hư vọng, có ngày cũng phải bị hư
hao, hoại diệt, kể cả những bức tượng Phật, dù làm bằng vật liệu gì đi nữa cũng
vậy, kể cả tấm thân tứ đại, sau trăm năm cũng phải bỏ lại. Nếu chúng ta nhìn
mọi người, không qua hình tướng bên ngoài, không phân biệt kỳ thị, không thành
kiến bất công, lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy được Như Lai, tức là thấy được Chân
Tâm Phật Tánh, của mình và của mọi người, đồng nhất không khác! Ðó chính là con
người chân thật, bất sanh bất diệt. Kiến Như Lai tức là ngộ đạo, tức là thoát
ly sanh tử luân hồi.
Cũng trong Kinh Kim Cang,
Ðức Phật có dạy:
Nhược dĩ sắc kiến ngã.
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhơn hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai.
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhơn hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa là: Nếu người nào
nhìn qua sắc tướng, diện mạo, hoặc do âm thanh, mà cầu Phật, hoặc cho rằng có
hình tướng như vậy, có âm thanh như vậy, mới phải là Phật, thì người đó đang đi
sai đường, lạc lối, không thể nào gặp được Phật, không thể nào thấy Như Lai.
Nói một cách khác, những người cứ tưởng: lạy tượng Phật nhiều, tức là hình
tướng, tụng kinh Phật nhiều, tức là âm thanh, thì được gặp Phật, nằm mơ thấy
Phật, những người như vậy, chẳng hiểu biết gì, đang hành tà đạo, làm sao hiểu
được Như Lai? Tại sao vậy?
Bởi vì, Phật hay Như Lai
chỉ về tâm tánh, vô hình vô tướng, không có hình tướng có thể thấy được bằng
đôi mắt thịt của con người. Bởi vậy cho nên, muốn thấy được Như Lai, muốn gặp
được Phật, con người phải phát huy trí tuệ bát nhã, phải nhận ra con người chân
thật, nhận ra Chân Tâm Phật Tánh của chính mình và của mọi người chung quanh
chúng ta.
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, và trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
"Sanh diệt ký diệt,
tịch diệt hiện tiền".
"Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".
"Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".
Nghĩa là: Khi nào trong
tâm con người, những niệm lăng xăng lộn xộn không còn khởi lên, chẳng hạn như
niệm tham, niệm sân, niệm si, khởi lên rồi lắng xuống nên gọi là: sanh diệt,
ngay lúc sanh diệt chấm dứt, không còn đó, tâm trí bình yên lặng lẽ, không xáo
trộn, chẳng bất an, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, cho nên gọi là: tịch
diệt hiện tiền, hay tịch diệt vi lạc, tức là cảnh giới an lạc, niết bàn tự tại,
hiện ngay trước mặt.
Tâm trạng bất an vì những
niệm sanh diệt, gọi là tâm chúng sanh. Tâm sanh diệt diệt rồi, không còn lăng
xăng lộn xộn nữa, trở nên tâm không tịch, trống không và tịch tịnh, hoàn toàn
thanh tịnh, gọi là: bản tâm thanh tịnh hay Tâm Phật.
Như vậy muốn tìm gặp được
Phật, chúng ta chỉ cần hành trì các pháp môn, dù thiền tông, tịnh độ tông, hay
mật tông, tức là: thiền quán, tọa thiền, thiền hành, tứ oai nghi thiền, tụng
kinh, niệm Phật, trì chú, cho đến mức rốt ráo, đạt được trạng thái "nhứt
tâm bất loạn". Lúc đó, chẳng những chúng ta gặp được Phật, mà chính chúng
ta vừa trọn thành Phật Ðạo đó vậy./.
NHƯ GIỌT NƯỚC LÁ SEN
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Nắng mùa hè ấm áp, giúp
cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm
quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn. Lá sen màu xanh
thẫm, trải khắp mặt hồ, tuyệt đẹp như bức tranh vẽ nghệ thuật. Vài giọt nước
nằm yên giữa dòng lá sen tự lúc nào, một làn gió thổi qua, những giọt nước rơi
nhẹ xuống mặt hồ. Sự yên tĩnh trong sạch và phẳng lặng của hồ sen, có thể
trưởng dưỡng những tâm hồn an tịnh, không tranh chấp, không hơn thua, không
phiền não.
Ai sống trên đời nầy
Tham ái được hàng phục Sầu khổ tự tiêu diệt
Như giọt nước lá sen. (Kinh Pháp Cú)
Tất cả mọi người trên
thế gian đều có chung một số phận "sanh lão bịnh tử", đó là cái khổ
lớn của đời người. Con người có sanh ra, tất có già, có bịnh và sẽ đi đến cái
chết chắc chắn như vậy. Con người tỉnh thức nhận rõ điều này. Diệu dụng của sự
tỉnh thức đưa con người thoát khỏi vô minh, phiền não, khổ đau của luân hồi.
Căn tánh của chúng sanh không đồng, nên Ðức Phật giáo hóa tùy
duyên, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chỉ dạy nhưng cũng không ngoài một vị giải
thoát. Phương pháp tu cốt yếu là giúp con người hiểu biết cách thực hành tinh
tấn, tận sức kiên trì, chiến thắng tâm ma cho đến khi đạt được giác ngộ giải
thoát, mới mong thoát khỏi đau khổ sanh lão bịnh tử, trở về niết bàn tịch tịnh.
Như hoa sen và lá không nhiễm bùn tanh và nước đọng. Diệu dụng của sự tỉnh thức
là con đường tu bằng trí tuệ cao thượng để có được kết quả viên mãn.
Ðức Phật dạy:
"Chánh pháp là tặng phẩm quí báu nhất. Pháp vị là hương vị đậm đà thanh
tịnh nhất. Pháp hỷ là niềm hoan hỷ an lạc cao cả nhất. Ái tận là công đức thù
thắng nhất, vì đưa đến quả vị giải thoát tối thượng".
Luôn sống trong tỉnh thức
Bất luận ngày hay đêm
Tâm không nhiễm ái dục
Thường tu niệm tỉnh giác
Lậu hoặc ắt tiêu
trừ. (Kinh Pháp Cú)
Chư Tổ ví tâm như nước
hồ thu không gợn sóng, trăng soi bóng nước. Như ly nước đầy cáu bẩn, cần thời
gian để yên một nơi, cáu bẩn lắng xuống, ly nước được trong dần. Người tu muốn
được thấy sự diệu dụng của Phật pháp, cần phải có không gian yên tĩnh thích hợp
để hành thiền và tu học. Khi không còn thấy sự yên tĩnh là buồn chán, ly nước
cáu bẩn được lọc sạch.
Người sống không thẹn
với lòng là người không tìm hạnh phúc trong quyền lực, trong sự tranh đấu hơn
thua, bất chấp sự đau khổ của kẻ khác. Chúng ta nhận ra được sự tai hại của lòng
tham và ích kỷ sẽ gây thù oán khắp mọi nơi, không có hạnh phúc nào bền vững cả.
Cuối cuộc đời là sự tự hủy diệt trong cô đơn và đau khổ.
Người có trí tuệ hàng
phục được tham sân si, xa lánh được nhân xấu ác, tâm sáng suốt, sẽ thấy được
đâu là hạnh phúc bền vững chân thật. Khi cảm nhận được hạnh phúc xuất thế gian
là vô giá, thì đối với họ thắng bại, danh vọng, quyền lực, vật chất không còn
là quan trọng nữa.
Chư vị tôn túc thường nói: "Nhịn một câu sóng yên biển lặng, lùi một bước biển rộng trời
cao".
Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Phiền não trên đời như túi đá nặng
trên vai, người nào biết buông bỏ xuống thì nhẹ nhàng như cởi mây ngao du sơn
thủy.
Vận dụng từ bi để trừ
sân hận, hiểu được sự bất tịnh sẽ dẹp trừ tham dục, khai mở trí tuệ phá tan
được si mê. Hạnh phúc cao quí là ở nhân phẩm trong sạch và lòng từ ái mà có
được. Quá nhiều thủ đoạn và ích kỷ tham cầu cho riêng mình chỉ chuốc lấy khổ
đau và thù hận mà thôi.
Trong đời sống hiện đại,
mật độ dân cư càng tăng, tiện nghi vật chất phục vụ con người càng lôi cuốn hấp
dẫn, áp lực đồng tiền càng mạnh. Con đường sa đọa mê đắm đưa nhiều người đến
vực thẳm không còn kềm chế được. Nếu họ không thỏa mãn được những tham vọng
điên cuồng, hậu quả đưa đến hạnh phúc gia đình tan vỡ, tội lỗi và bất hạnh
trước mắt. Lúc đó con người tự hành hạ mình bằng sự sân hận, oán người, hận
đời, đôi khi đi đến loạn tâm điên rồ, mất tự chủ và sáng suốt, để rồi việc ác
gì cũng dám làm, thật là nguy hiểm vô cùng.
Khi nghĩ đến những bất
hạnh mà họ phải gánh chịu, với trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi, mọi người nên
thấy họ đáng thương hơn đáng trách. Chúng ta không khinh khi, cũng không bỏ mặc
họ, kiên nhẫn tùy duyên, đúng lúc nào đó có thể sẵn sàng giúp họ bằng tấm lòng
khoan dung độ lượng, đưa họ về con đường bình an trong chánh pháp.
Muốn có được sự bình an
thực sự, con người bớt đòi hỏi vị kỷ, sống đơn giản, xa rời hơn thua tranh
chấp, trao giồi đức hạnh, khiêm hạ vô tư, vì người không vì mình, trong tất cả
hành động của thân khẩu ý.
Sự toàn thiện về thân và
tâm chưa đủ, chúng ta còn phải làm nhiều phước thiện. Tâm an lạc hạnh phúc khi
mọi người xung quanh đều có hạnh phúc.
Tuy lá sen không được
nhiều người ca tụng và chiêm ngưỡng như hoa sen tròn vẹn hương sắc, nhưng lá
cũng góp phần làm cho cảnh sắc của hồ sen tươi thuần và tăng thêm giá trị thiện
pháp cho tâm người biết thưởng ngoạn.
Người có trí tuệ thấy rõ
nhân quả của thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, thì mới quyết tâm buông bỏ được
tham lam, sân hận, và si mê.
Người giữ được tâm trong
sạch, thân đoan chính thanh tịnh, những đam mê của cảnh trần không làm họ dính
mắc bận tâm, như giọt nước trên lá sen.
Người tu khi hành đạo
thường gặp "bát phong", nghĩa là những sự tôn vinh hay phỉ báng, khen
hay chê, sướng hay khổ, lợi dưỡng hay ngược đãi, tất cả đều không màng.
Bát Phong là tám điều
xảy ra trên đời làm tâm con người loạn động bất an, nhưng với người biết cách
tu, tâm không bị phiền não chi phối. Bát phong gồm 4 cặp đối nghịch:
Lợi: khi gặp lúc lợi lộc, tâm
không ham muốn vui thích.
Suy: khi gặp cảnh suy sụp,
bất như ý, tâm không sầu não, bi lụy.
Hủy: khi gặp sự hủy nhục,
tâm không sân hận, thù oán.
Dự: khi gặp sự danh dự, tâm
không dính mắc, tự mãn.
Xưng: khi gặp sự xưng tán,
tâm không ngã mạn, tự kiêu.
Cơ: khi gặp sự chỉ trích,
tâm không đau khổ, buồn rầu.
Khổ: khi gặp lúc khổ nạn,
tâm không mặc cảm, oán than.
Lạc: khi gặp cảnh vui mừng,
tâm không tham đắm, si mê.
Chư Phật hóa độ chúng sanh bằng tâm "Ðại hùng, Ðại lực, Ðại
từ bi". Các Ngài vượt qua hết trở ngại của sự phân biệt và chia cách.
Người tu theo Phật phải dũng mảnh tinh tiến rũ bỏ hết tham lam, sân hận và si
mê, đem ánh sáng trí tuệ và tâm từ bi, xua tan bóng tối của vô minh nhiều đời
nhiều kiếp cho mình và cho người hữu duyên.
Muốn thanh tịnh hóa tâm hồn, đã quá nhiều mệt mỏi vì sự cạnh
tranh ồn ào của cảnh đời, như giọt nước lá sen, chỉ cần nhân duyên của cơn gió
nhẹ cũng đủ làm cho giọt nước phiền não rơi xuống hồ, trả lại sự trong sạch
nguyên vẹn cho lá. Sự diệu dụng của Phật Pháp, đem lợi lạc cho con người ở mọi
thành phần giai cấp xã hội.
Ngày nay, băng giảng,
kinh sách, được dịch ra nhiều ngôn ngữ, được phát hành rộng rãi, các khóa tu
học được tổ chức tại các tự viện, chúng ta có thể tham khảo và tìm một pháp môn
thích hợp với căn cơ và hoàn cảnh để tu học. Các vị học giả trí thức đã bỏ
nhiều tâm huyết và công phu thành lập các "website" giá trị tu học,
đem nhiều lợi lạc cho tứ chúng, xuất gia và tại gia. Giáo lý đạo Phật cũng được
nhân loại đón nhận như nước cam lồ cứu khổ chúng sanh, với lòng tôn kính và sự
biết ơn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vô cùng vô tận.
Dù sống một trăm năm
Không thấy Pháp tối
thượng
Chẳng bằng sống một ngày
Ðược thấy Pháp tối
thượng.
(Kinh Pháp Cú)
Dù sống một trăm năm
Không tuệ, không thiền
định
Không bằng sống một ngày
Có tuệ, tu thiền
định.
(Kinh Pháp Cú)
Sự tu học không đòi hỏi
phải ngộ tức thời, hay nóng lòng cầu mong chứng đắc, nhưng cũng đừng trì trệ.
Niệm Phật hay tọa thiền để đi đến thanh tịnh tâm, là các pháp môn thực hành,
đồng thời với việc tìm hiểu lời Phật dạy, để biết rõ cách tu tâm sửa tánh, đúng
theo chánh pháp. Kết quả trừ dứt tất cả nghiệp ác và các duyên gây đau khổ, sau
đó cứu người giúp đời, tạo công đức và phước đức. Nguyện đem công đức và phước
đức hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đều thành Phật đạo.
Tóm lại, con người thường mong muốn rất nhiều, nhưng đạt được
những điều mong cầu thì rất ít. Không ai muốn khổ, nhưng vẫn gặp khổ nạn, không
muốn già bịnh, nhưng già bịnh không ai tránh khỏi, không muốn chết cũng không
được. Cuộc sống luân hồi khổ nhiều vui ít, sanh sanh tử tử mãi không thoát
được.
Thời gian qua rất nhanh,
tuổi đời tuổi đạo thì tăng dần, phiền não của tâm chấp trước càng nhiều, là
những tư tưởng, quan niệm sai lầm, thành kiến, làm che lấp ánh sáng giác ngộ.
Người tu cần thời gian tĩnh tu, tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền để an định tâm,
dẹp trừ định kiến và phiền não. Trong kinh sách, có câu kệ như sau:
Chánh thân đoan tọa
Ðương nguyện chúng sanh
Tọa bồ đề tòa
Tâm vô sở trước.
Nghĩa
là:
Thân ngồi ngay thẳng
Nguyện cho chúng sanh
Ngồi tòa giác ngộ
Tâm chẳng chấp trước.
Chư Tổ dạy: "Duy
Tuệ Thị Nghiệp". Người tu lấy trí tuệ làm sự nghiệp, tinh tấn làm công
phu, dùng đạo lực khắc phục mọi khó khăn, tu tập thiền định để đi đến kết quả
giác ngộ và giải thoát.
Khi nếm được "Hương
Vị Phật Pháp" hạnh phúc không thể nghĩ bàn, thì mỗi thời khắc luôn
được sống trong giới pháp an lạc của chư Phật. Báo ân đức Phật, hành Bồ Tát
đạo, với tâm vô ngã vị tha, hành từ bi hỷ xả. Từng bước từng bước đạt được đức
hạnh trọn vẹn, vô ngã vị tha, đem tâm trí và đạo lực tinh tấn an nhiên đi vào
cảnh giới an lạc của chư Phật. Từng bước từng bước tạo duyên lành cho mọi người
thân quen nếm được Pháp vị của sự giác ngộ và giải thoát.
Chúng ta có thể tự nhủ
lòng rằng: "Hôm nay sự tu tập của tôi đã được một phần an lạc thanh tịnh,
so với ngày hôm qua có tiến bộ. Nguyện ngày mai sẽ cố gắng nhiều hơn nữa và
không bao giờ thối chuyển. Hãy đặt niềm tin vào con đường mà Ðức Phật đã giảng
dạy, giữ giới thanh tịnh, trừ bỏ ba độc tham sân si. Ðó là một sự vô cùng quan
trọng và cần thiết cho đời tu".
Nguyện chánh pháp lưu truyền
Phổ cập khắp thế gian,
Chúng sanh thường tịnh lạc,
Phật đạo chóng viên thành.
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật.
TÂM
PHẬT SẼ THÀNH
TKN.Thích
Nữ Chân Liễu
Trong Phật giáo, xuất gia hay tại gia, dù có sinh
hoạt trong chốn Thiền môn hay không, chắc hẳn nhiều người cũng có nghe nhắc lại
hoặc biết đến câu nói, từ kim khẩu của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ngay khi
chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác sau 49 ngày đêm thiền tọa dưới cội bồ
đề: “TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH - CHÚNG SANH LÀ
PHẬT SẼ THÀNH”.
Có nghĩa là Đức Phật tuyên bố đã thành Phật
ngay rạng sáng hôm đó và tất cả chúng sanh trong sáu cõi, gồm: trời, người,
atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh, đều sẽ thành Phật trong tương lai. Trong hiện
tại, tất cả đều là nhân, là hạt giống, nếu biết tu tập theo đúng chánh đạo,
hành đúng chánh pháp, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi
sanh tử luân hồi, trở thành một vị Phật.
Ở đây, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được vai
trò của cõi người đang sống và phải chịu trách nhiệm về số phận nghiệp duyên và
nhân quả của chính mình. Bao giờ thì thành Phật, hay mãi mãi là chúng sanh? Câu
hỏi nầy có bao giờ con người nghĩ đến hay chưa?
Ngày nào đó với tâm thái trầm mặc, an bình, con
người chọn cho riêng mình một không gian tĩnh lặng, hít thở nhẹ nhàng, ngồi xuống
thiền tọa, chân xếp hình hoa sen, sau đó thực tập làm Phật vài ba phút.
TÂM
CHƯ PHẬT ĐÃ THÀNH
Phật tại Tâm, không phân biệt Tướng - xuất
gia tại gia, nam nữ, đẹp xấu, giàu nghèo. Phật Tâm không cố chấp, không phiền,
không giận, không trách. Ai tôn kính, ai không tôn kính cũng chẳng khác gì
nhau, chính là nghĩa bất tùy phân biệt. Tâm Phật là tâm bình đẳng, thanh tịnh tuyệt
đối. Lòng từ bi của Chư Phật là vô ngã vị tha, thương chúng sanh như cha lành
thương con.
Phật là Tâm sáng suốt, trí tuệ hiểu biết tất
cả thiện ác trong thế gian một cách rõ ràng, không nghi, nhưng bất tùy phân biệt.
Tâm Phật không phê phán, không chê trách, không thiên vị riêng tư một cá nhân
hay một tôn giáo nào, không kết án vội vã một ai, không tranh cãi, không hận
thù, không tà niệm, yêu thích người thiện, bỏ mặc người ác, khen mình chê người,
không dùng lời phỉ báng nặng nề bất chấp sự đau khổ của người để thỏa mãn cái
tôi - tự ngã.
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đắc đạo ngay nơi
cõi ác thế Ta Bà “ngũ trược” (tức là
cõi có 5 điều dục vọng và si mê):
1. Kiếp
trược:
Nhiều căn bịnh hành hạ đau đớn, nạn đói, chiến tranh, thiên tai.
2. Kiến
trược:
Nhiều tà kiến, sai trái, dụ dẫn tạo nghiệp ác, cuồng tín si mê.
3. Phiền
não trược:
Nhiều tham vọng, tâm lăng xăng điên loạn, không tự chủ.
4. Chúng
sanh trược: Chúng sanh chưa hiểu suốt nhân quả thiện ác, nên gây thù
oán, thân quyến tương tàn.
5. Mệnh
trược:
Thọ mệnh chúng sanh ngắn ngủi, vô thường biến đổi, luân hồi sanh tử đau khổ
muôn trùng.
Đức Phật vì lòng từ bi, không nhập Niết Bàn
sau khi chứng đạo. Ngài ở lại thế gian thuyết muôn vạn pháp môn tu và chỉ dạy con
đường tu thành Phật bằng thân giáo. Cử chỉ và hành động đầy khiêm tốn, bình đẳng,
từ bi và hết sức tế nhị. Trong thời gian Đức Phật còn tại thế, nhiều người
không hiểu biết thế nào là thành Phật. Có những vị còn không tiếc lời phỉ báng
và nhiều lần muốn giết Đức Phật để giành ngôi Thế Tôn. Giá trị tình thương
chúng sanh và đức độ kham nhẫn trong tâm lý hoằng pháp của Đức Phật là bậc trí
tuệ tuyệt diệu và thâm sâu vô cùng.
Chư Phật
và Chư Tổ thường dạy:
Lấy từ bi và trí tuệ làm thăng tiến đạo nghiệp
Lấy sự hy sinh và phụng sự chúng sanh làm niềm
hạnh phúc
Lấy bao dung và hỷ xả để cư xử với mọi người
Lấy sự nghiệp giác ngộ và giải thoát làm cứu
cánh.
Chư Phật tùy duyên thuyết pháp, cứu độ cho tất
cả những ai thật sự mong cầu một đời sống thánh thiện tốt đẹp. Chúng sanh nghe
lời dạy của Chư Phật, phát tâm tìm hiểu rõ ràng chân lý của sự giác ngộ và giải
thoát. Sau đó, con người thực hành ba chặng đường VĂN, TƯ, TU (nghe hiểu, suy
nghĩ, thực hành). Phát sanh trí tuệ sáng suốt mới mong vượt ra khỏi sự trói buộc
đau khổ của luân hồi sanh tử.
“Như Lai là người chỉ con đường chứng được cứu
cánh Niết Bàn tịch tịnh.
Thế Tôn là vị đã đoạn trừ phiền não của thế
gian và đem lại nhiều thiện pháp cho chúng sanh”. (Tăng Chi Bộ Kinh)
Phật Tánh không do cầu khẩn van xin mà có,
cũng không phát sinh từ lòng ái dục, hay tình cảm hạn hẹp ích kỷ. Phật Tánh
phát xuất từ tâm từ bi, bao la tươi nhuần và bình đẳng như tâm Chư Phật vậy. Đó
là những giây phút vô cùng trân quí, khi tâm vô trụ, vô chấp, đạt được an nhiên
và tự tại, hạnh phúc và giải thoát.
Bản tâm thanh tịnh của Chư Phật không tạp niệm,
không tà ý, ví như mặt biển thái bình lặng yên lúc không sóng không gió, mọi thời
mọi khắc đều an nhiên tự tại và hạnh phúc giải thoát. Nói chung tất cả niệm do
tâm chấp, tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm đố kỵ, tâm khinh khi, tâm lúc thuận
lúc nghịch, lúc thân lúc thù, khi thương khi ghét, đó là những tạp niệm vọng
tâm vọng chấp mà Chư Phật đã hoàn toàn chế ngự, điều phục được tất cả, nên Chư
Phật là những vị “Phật đã thành”.
TÂM
NHỮNG VỊ PHẬT SẼ THÀNH
Người tu theo Phật tuy chưa được trọn thành
Phật đạo, nhưng ai cũng có nhân Phật Tánh và tâm ý thiện lành. Trong những giây
phút con người thật sự để lặng yên tâm thức, chẳng khởi lên một niệm suy tính
so đo, hơn thua, tranh chấp, phiền não, vọng động, thương ghét, đau khổ, thù hận
và xóa bỏ hết ranh giới của nhỏ nhen cố chấp nhị biên, thiện và ác, đúng và
sai, khi đó con người sẽ cảm nhận được Phật Tánh của mình hiển hiện vô cùng kỳ
diệu. Đó chính là tâm từ bi hỷ xả như Chư Phật. Nguồn an lạc hết sức trong sáng
với muôn ngàn thương yêu của lòng bao dung, đồng cảm và tha thứ.
Câu nói của Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát: Tôi
không dám khinh các Ngài vì các Ngài cũng sẽ thành Phật. Có tu nhiều đời nhiều kiếp
mới được làm thân người. Có tài, có sắc, có phước, vinh hiển trong đời, không
phải ai cũng có được. Nhưng dù sanh vào hoàn cảnh như thế nào cũng là do nhân
quả, đều có Phật Tánh sáng suốt để đi đến giác ngộ và sẽ thành Phật, nhanh hay
chậm, tùy theo nghiệp duyên, phước đức và công phu tu tập của mỗi người.
Chúng sanh bao gồm những con người còn sống
trong luân hồi sanh tử, chưa giác ngộ toàn vẹn, cho nên tâm vẫn còn hỷ, nộ, ái,
ố, tham lam, sân hận và si mê. Không một ai muốn phạm lỗi lầm, cũng không một ai
muốn bị hình phạt, hay bị sỉ nhục. Con người phàm tục vì những cảnh trần lôi cuốn,
đôi khi mất cảnh giác, phải chịu nhiều đau khổ và phiền não.
Cực Lạc Quốc là nơi chốn thanh tịnh trong sạch,
không phiền não, không ô nhiễm, không tham sân si. Đó là cõi Phật, là nơi chư
Thượng Thiện Nhơn (người tốt hoàn toàn) đồng câu hội. Người Phật tử sống ở thế
gian ai ai cũng muốn, sau khi xả báo thân nầy, được về cảnh giới tịnh độ của chư
Phật. Cho nên ngoài việc mỗi thời khắc nhất tâm niệm Phật, thiền tọa tập làm Phật,
để phát sanh trí tuệ. Phật Tánh luôn sáng suốt, chân thật và thanh tịnh tuyệt đối.
Chư Tổ dạy có bốn pháp cao thượng tu hành như
sau:
1. Giới đức cao thượng.
2. Định tâm cao thượng.
3. Trí tuệ cao thượng.
4. Giải thoát cao thượng.
Có nghĩa là giữ giới bền chặt, giữ tâm chánh
trực, có trí tuệ nhận rõ đúng sai, thiện ác, lòng không cố ý khoe khoang chứng
đắc, tự hào hơn thua, không vướng mắc một giả danh nào hết, cũng không tự gạt
tâm mình hay gạt người, không tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp và ý nghiệp. Cuối
cùng là tâm được khinh an, thanh thản, tự tại và giải thoát.
Nước mắt chúng sanh như biển cả, thế gian đau
khổ nhiều lắm rồi. Nếu biết được ai ai cũng có một thứ quí giá vô cùng, đó là
“Phật Tánh Chân Như”, là nhân lành đưa đến hạnh phúc an lạc vĩnh cửu, không có
khổ đau sanh tử, thì con người cần gì phải tham gia vào sự tranh đua, sân hận,
lỗi phải những chuyện danh lợi thế gian. Buông bỏ hết thì tâm được khinh an.
Suy cho cùng có ai trên đời không một vài lần
phạm lỗi, hối hận, khổ đau. Thường thì con người có rất nhiều cách biện minh và
dễ dàng tha thứ cho chính bản thân, nhưng đối với người khác, kể cả người thân
sống chung quanh, thì không muốn tha thứ hoặc cảm thông, luôn luôn đòi công bằng
và xử lý thỏa lòng. Do đó, con đường đi đến cảnh giới Chư Phật thật là xa xôi
ngàn trùng.
Chúng sanh của thế kỷ 21 nầy có nhiều phương
tiện và phước duyên gặp Phật Pháp. Giáo pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca được thế
giới tôn kính và đón nhận như nước cam lộ diệt trừ muôn ngàn phiền não. Sống với
Tâm Phật qua cung cách ứng xử đạo đức hằng ngày, tức là có được hạnh phúc tại
thế gian rồi đó. Con người cùng nhau phát nguyện tinh tấn tu học, nhân Phật
tánh càng ngày càng hiển lộ, cây bồ đề đâm chồi nảy lộc đơm hoa kết trái.
Trong kinh sách Chư Tổ có dạy:
Nội cần khắc
niệm chi công
Ngoại hoằng
bất tranh chi đức.
Đó là công phu và đức độ của người tu. Bên trong
tâm, giữ gìn chánh niệm, gọi là công phu. Bên ngoài thân, không hơn thua, không
tranh cãi, gọi đức độ. Thân và Tâm song hành tu tập gọi là Công Đức. Còn gọi là
Phúc Tuệ song tu.
Điều quan trọng là muốn tu phải phát tâm học
hiểu Phật Pháp cho thấu đáo và thực hành trong đời sống hằng ngày. Khi đó giới
hạnh được vẹn toàn, tâm định được phát triển, trí tuệ được khai mở, con người cảm
thấy được niềm an lạc thanh tịnh không thể nghĩ bàn.
Dù là người xuất gia hay tại gia, con người
muốn tu mà không tha thiết mong cầu giác ngộ Phật Pháp, thì cuộc đời đi tu sống
trong sự mệt mõi buồn chán, quanh năm suốt tháng, tin vào sự linh thiêng huyền
bí và chỉ biết chờ đợi phép lạ một cách tiêu cực. Khi cái chết gần kề, lúc đó
hoảng loạn, bơ vơ, tâm trạng vô thức, không biết rơi vào cảnh giới tốt xấu nào
đây, có phải muộn quá hay không?
Đạo Phật được thế giới tôn vinh là đạo bình đẳng
và từ bi trí tuệ bậc nhất. Tuyệt vời hơn nữa là tất cả người tu phát nguyện: “Vì
chúng sanh đạt thành ngôi chánh đẳng chánh giác. Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên mãn”. Nghĩa là: tự thân giác ngộ và cứu độ tha nhân, cho đến khi hạnh giác
ngộ tròn đầy, tất cả chúng sanh ra khỏi lục đạo luân hồi.
Trong thời gian qua, nhân loại trên trái đất
chịu đựng quá nhiều thiên tai. Sóng thần Nhật Bổn, bão tố Sandy, đã cướp mất
bao nhiêu tài sản và nhân mạng của những người vô tội. Cảnh màn trời chiếu đất,
cha mẹ mất con, vợ chồng ly tán, đau khổ tột cùng. Nhưng sau đó, họ không thể
ngồi một chỗ than trời trách đất, suy sụp, buông trôi, hay giận cho trời già
cay nghiệt, hận bản thân vô phước. Họ cùng nhau xây dựng lại ngôi nhà, vườn
cây, khóm hoa, đem trở lại sự sống mãnh liệt trong tình người với người đầy
lòng nhân nghĩa thân ái và bao dung. Đó chính là sức mạnh của Phật Tâm, Phật
Tánh trong mỗi con người, trong cuộc sống hàng ngày, trên thế gian này.
Nói tóm lại, để sống một cuộc đời có ý nghĩa
hơn, với Tâm Phật sẵn có, con người cần được thăng tiến trên con đường giác ngộ,
giải thoát. Con người cần phải luôn phát nguyện vun bồi công đức và phước đức,
cho đến khi được đầy đủ từ bi và trí tuệ, lý sự viên dung. Đây chính là điểm
siêu việt của đạo Phật đối với chúng sanh với câu Phật ngôn bất hủ: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Ai ai cũng có thể tu theo con đường Phật dạy và đều có nhân duyên trọn thành Phật
đạo.
Xin thành tâm cầu chúc cho những người con Phật,
dù xuất gia hay tại gia, cùng là chúng sanh ở cõi ta bà, buông bỏ được tảng đá
nặng nề của cái “ta” nhiều đau khổ phiền lụy và chuyển đổi những bất thiện nghiệp
thành chư thiện nghiệp. Trước mắt còn đầy dẫy những khó khăn và thử thách cho
người tu hành Phật đạo, con người cùng mạnh dạn bước từng bước chân chánh niệm,
sáng suốt, an lạc, đi trên con đường tìm cầu giác ngộ.
Nguyện cầu tất cả chúng sanh trong pháp giới
đều chứng ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng thành Phật Đạo.
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN.Thích
Nữ Chân Liễu