Friday, December 5, 2014

NGHIỆP VÀ SỰ SỐNG, TÂM VÔ THƯỜNG

Thích Đạt Ma Phổ Giác

TÂM VÔ THƯỜNG
    Trước khi đi sâu vào tâm vô thường, chúng ta cũng cần tìm hiểu, xác thân này do đâu mà có? Phải chăng do ta điên đảo vọng tưởng mà có thân này? Đức Phật đã chỉ rõ, con người do vô minh vọng động, bám víu trần cảnh, tham đắm sắc dục, chạy theo gió nghiệp thức, chấp chặt vào đó, tạo ra ý thức hệ, nên nỗi khổ, niềm đau bắt đầu có mặt.
    Chính vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về tâm vô thường. Nói về tâm thì ai cũng cho rằng, cái hay suy tư, nghĩ tưởng là tâm mình, nhưng nhìn kỹ lại thì tâm suy nghĩ đó khi có, khi không. Bình thường thì tâm hay suy tư, nghĩ tưởng lăng xăng đó lúc nào cũng quấy rầy chúng ta, nhưng khi nhìn lại, tìm kiếm chúng thì không thấy đâu. Bởi tâm luôn thay đổi và biến dạng, khi thì buồn thương, giận ghét, buổi sáng nghĩ chuyện này, buổi chiều nghĩ chuyện kia, lúc nhớ về quá khứ, khi nghĩ đến tương lai, còn hiện tại thì bồn chồn, lo lắng, tính toán đủ thứ, cho nên không được yên.

     Vì thế, đức Phật gọi “tâm viên ý mã” là vậy, nó giống như con khỉ chuyển cành, hay con ngựa chạy rong. Như hai vợ chồng nọ sống với nhau rất hạnh phúc, được ba mặt con, hai vợ chồng gây cãi nhau suốt ngày không thể nào khuyên can; mặc dù đã được ban tư vấn hôn nhân hạnh phúc gia đình nhiều lần hoà giải, nhưng hai vợ chồng vẫn nhất quyết ly hôn.
     Trước lúc xa nhau, người vợ hỏi ba đứa con, “nay ba mẹ không thể sống cùng nhau được, các con bây giờ muốn theo mẹ hay cha?”
     Đứa con thứ nhất nói “con theo mẹ”. Đứa con thứ hai cũng nói “theo mẹ”, đến thằng cu Tí nhỏ nhất chẳng chờ mẹ hỏi, nó nói “con theo mẹ à”. Nghe đến đây, người chồng liền nói, “ba đứa tụi nó theo bà thì tôi cũng theo em luôn”.
     Bởi tâm con người luôn thay đổi, khi thì suy nghĩ chuyện này, lúc lại suy nghĩ chuyện kia, không bao giờ ngừng nghỉ. Như hai vợ chồng nọ, ai cũng muốn mình có quyền quyết định mọi thứ trong nhà, chẳng ai nhường nhịn ai. Làm chồng thì có nghiệp của người nam, làm vợ thì có nghiệp của người nữ, không ai giống ai, vì nghiệp của người nam và nữ khác nhau, ta không thể buộc mọi người theo ý riêng của mình.
    Vì vậy, vợ chồng cần phải biết thông cảm và tha thứ lẫn nhau, ai cũng có tốt, có xấu lẫn lộn, ta chỉ một bề tận dụng cái tốt cho nhau. Nhìn chung, từ cuộc sống cá nhân, gia đình, cho đến quan hệ xã hội, không thể có khuôn mẫu giống nhau được. Người nam thì lúc nào cũng cứng rắn, mạnh mẽ, còn người nữ thì yếu mềm, dịu dàng;  do đó, nam và nữ gặp nhau rất khó mà hòa hợp với nhau được.

        Khi hình thành một gia đình, một bên cương, một bên nhu và bất đồng như vậy, nên muốn hoà hợp, tạo hạnh phúc, không phải là chuyện dễ dàng. Theo lời Phật dạy, cả hai vợ chồng cần phải biết thông cảm, tha thứ cho nhau, chồng nói vợ nghe, vợ khuyên chồng biết hối cải thì mới được, chứ vợ chồng không chịu nhường nhịn lẫn nhau, cứ ngấm ngầm bất đồng quan điểm, cho đến khi “tức nước vỡ bờ”, dẫn đến ly thân, ly dị là điều không tránh khỏi.
     
Như vậy, con người sống trong thế gian không thể có hạnh phúc tuyệt đối. Vậy mà ai cũng đòi được an vui, hạnh phúc, mà chúng ta không chịu nhường nhịn nhau. Tâm con người lúc nào cũng tham muốn đủ thứ, lúc thì muốn cái này, khi thì muốn cái kia.
     Người nam thường quan niệm rằng, mình là trụ cột gia đình, vợ chỉ là người tuân theo, nếu không làm theo đúng ý mình thì chửi mắng, hành hạ, đánh đập. Bởi vì người nam thường cho rằng, mình là phái mạnh, là trụ cột gia đình, có quyền quyết định tất cả theo quan niệm khi xưa của thời phong kiến, “chồng chúa vợ tôi”.
   
  Đó là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, gây đau khổ và làm tan vỡ hạnh phúc. Vì vậy, sống trong cõi đời này, chúng ta phải biết tu tập để thấy rõ được nguyên nhân sâu xa của nó, cố gắng vượt qua những bất hạnh, khổ đau do hai vợ chồng không biết thông cảm và tha thứ cho nhau. Trong cuộc sống hiện tại của một số gia đình, tuy dường như thấy hạnh phúc, nhưng hạnh phúc trong gượng gạo, không phải là thứ hạnh phúc chân thật và lâu bền.
    Do đó, để tạo được hạnh phúc thật sự trong cuộc sống gia đình, mọi người phải biết nhường nhịn lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, chồng giận vợ nhịn, vợ khuyên thì chồng phải biết hối cải, mỗi người phải biết cảm thông, bao dung và tha thứ. Cho nên, ca dao Việt Nam có câu:
Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi, bớt lửa, mấy đời cơm khê.

    Nhân duyên nói về tâm vô thường, tôi kể câu chuyện trên để chúng ta cùng nhau suy ngẫm lời Phật dạy. Tâm con người luôn thay đổi và biến dạng, không lúc nào ngừng nghỉ; vì vậy chúng ta phải khéo tu, nhờ tu mà mình dễ dàng cảm thông và tha thứ cho nhau.
    Như trường hợp hai vợ chồng trong câu chuyện trên, đã quyết chí ly hôn dù nhiều người khuyên nhủ, cả hai người vẫn khăng khăng trước sau như một, nhất quyết ra toà ly dị, nhưng khi người vợ hỏi mấy đứa con theo ai, ba đứa đều trả lời theo mẹ. Lúc đó, người chồng nghe ba đứa con nói vậy nên chìu theo ý mấy đứa con, “chúng nó theo bà, thì tôi cũng theo em luôn.” Thế là từ đó về sau, hai vợ chồng chung sống với nhau rất hoà thuận và hạnh phúc, nhờ biết cảm thông và nhường nhịn lẫn nhau.
    Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa, hại người vật, thay vào đó là những tâm tư thiện lành, tốt đẹp, có tính cách giúp đỡ, an ủi nhau. Trong kinh Phật dạy rằng, “tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, rất xa, vô hình dạng, như ẩn náu hang sâu, nếu điều phục được tâm thì thoát khỏi khổ đau, mê lầm từ muôn kiếp.”

    Có một chú tiểu xuất gia với thầy mình, nguyên là cậu ruột ngoài đời, vị thầy này đã chứng quả A-La-Hán. Một hôm, chú tiểu được thí chủ cúng dường cho hai xấp vải. Chú mừng quá, nhanh chân đi về chùa để cúng dường lại cho thầy, nhưng chú năn nỉ mãi mà thầy vẫn không nhận, buồn quá, chú nản chí, không muốn tu tập nữa.
     Hôm nọ, chú đang đứng quạt hầu thầy, trong lòng vẫn còn buồn về chuyện thầy không chịu nhận hai xấp vải, chú mơ màng để tư tưởng trở về với dòng đời: Mình mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, chỉ có cậu là người thân yêu duy nhất, nay là thầy mình, vậy mà thầy không thương tưởng, đoái hoài đến mình, thôi thì mình không theo thầy tu học nữa, mình ra đời gầy dựng sự nghiệp thế gian cho rồi. Nhưng ra đời rồi phải làm gì để sống đây?
     
Chú cứ miên man trong dòng suy tư, nghĩ tưởng, mà lòng càng thêm buồn rầu, lo lắng, bất an. Đang lúc mơ mộng chạy theo dòng suy tư, nghĩ tưởng, bỗng nhiên chú loé lên một vấn đề:À đúng rồi, hay là mình đem hai xấp vải này ra chợ bán đi, lấy tiền mua một con bò cái về nuôi, bò chỉ ăn cỏ ngoài đồng, không tốn tiền mua thức ăn cho nó, còn mình hằng ngày chỉ việc dẫn bò đi ăn. Sống như thế thật là sung sướng và hạnh phúc làm sao? Bò thì mỗi năm sanh một con, đến chừng tám năm sau, mình có thêm một đàn bò chừng hơn chục con. Thế thì tốt quá, rồi mình sẽ bán hết số bò đó, chỉ chừa lại một con nuôi tiếp, còn lại bao nhiêu mình mua nhà cửa, đất đai, ruộng vườn. Khi đó, mình sẽ là ông chủ một gia tài đồ sộ, và sẽ cưới một cô vợ trẻ xinh đẹp. Sau khi đứa con đầu lòng được sinh ra đời, mình sẽ dẫn vợ con về thăm thầy, cho quy y làm đệ tử Phật.

     Nghĩ như thế xong, trong lòng chú tiểu mừng vô hạn, bỗng dưng cô vợ trượt chân té, thằng bé đang bồng trên tay kháu khỉnh rơi xuống đất, khóc bù lu bù loa, tức quá, không kìm hãm được cơn giận, chú sẵn trên tay cầm cây quạt khỏ lên đầu vợ liền mấy cái, đã bảo mà, đi không nhìn trước ngó sau gì hết, để con bị té như vậy, đàn bà gì mà không ý tứ chút nào”.
    Bỗng nhiên, chú nghe một giọng nói điềm đạm, “con đang gõ lên đầu thầy, con có thấy không?”

    Giật mình, chú tiểu tỉnh lại giấc chiêm bao mà sám hối xin thầy tha thứ tội lỗi.
    Câu chuyện trên đã nói lên tâm ý của con người lúc nào cũng toan tính, tham muốn đủ thứ, suy nghĩ hết chuyện này lại đến chuyện kia; vì chúng ta cho rằng tâm này là ta, là mình, nên ta nói, ta suy nghĩ đủ thứ. Chú tiểu đang đứng hầu thầy mà tâm tư cứ tưởng nghĩ đâu đâu, chẳng khác nào loài vượn khỉ đang chuyển cành. Cho nên, Phật dạy, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường không thật có, khi ta nhìn lại thì thấy nó mất tiêu.
     Bởi tâm ý con người vô thường thay đổi, nên mình mới tu được; còn nếu tâm con người không thay đổi được thì trước sau như một, làm sao mình tu tập được và cũng chẳng cần tu để làm gì? Vì có tu nó cũng như vậy, không thể thay đổi được, chúng ta vẫn suốt đời, suốt kiếp sống trong vô minh, phiền não mà thôi. 

     Trong cuộc sống, chúng ta ít nhiều ai cũng có thể cảm nhận được rằng, tâm này là vô thường. Cho nên, vua Trần Thái Tông, một vị Thiền sư đời nhà Trần, Việt Nam nói về tâm suy nghĩ như sau: Nghiệp căn ý là nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng, mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng như tằm kéo kén, càng buộc càng bền, như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.
      Chúng ta ai cũng nghĩ hết chuyện này đến chuyện nọ, nào là buồn, thương, giận, ghét, khen chê, đúng sai, phải quấy, tốt xấu, lo lắng đủ thứ, khi thì điên đảo vọng tưởng, nghĩ mình là trung tâm của vũ trụ, nên khi có quyền hành trong tay thì muốn” bình thiên hạ”, do đó vua Trần Thái Tông mới nói:

Phật tử mê tín không hiểu đúng sai chỉ biết cầu xin

Nghĩ vơ nghĩ vẫn, không lúc nào dừng.
      Tâm đã suy nghĩ lăng xăng, còn cho mình là ta, là tôi, nên dính mắc, chấp trước vào đó, và còn cho rằng cái hay suy nghĩ của mình là nhất thiên hạ. Đôi khi, chúng ta suy tư, nghĩ tưởng muốn vỡ tung cái đầu, mà vẫn cứ suy nghĩ hoài không để nó yên; đó là ta tự chuốt hoạ vào thân như con tằm kéo kén, càng buộc càng bền, rồi rốt cuộc rồi bị người ta cho vào nồi nước sôi.
     Cái hay suy nghĩ, tính toán, phân biệt hơn thua đủ thứ hết luôn thay đổi trong từng phút giây, mới vừa buồn khóc đó, chưa ráo nước mắt liền vui vẻ khi gặp người thân, mới giận liền thương. Trong một ngày, có hàng trăm cái hay suy nghĩ như vậy, có khi nghĩ điều thiện lành, tốt đẹp như Phật, có lúc nghĩ điều xấu, ác giống như cọp sói.

    Tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng luôn thay đổi không dừng, vì thế đức Phật mới nói, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường, đã vô thường mà cứ nhận lầm mình là ta, là tôi; từ đó, ai không đồng quan điểm với mình thì chống đối lẫn nhau, dẫn đến thù hằn, ghét bỏ, rồi tìm cách giết hại nhau.
      Phật dạy, “chúng ta thấy rõ tâm vô thường để mọi người đồng cảm thông với nhau, ai cũng có cái suy nghĩ riêng của mình, nên không ai giống ai. Do suy nghĩ và quan niệm không hợp nhau, sinh ra oán giận, thù hận và chống đối lẫn nhau. Trong gia đình, con cái không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không vui vẻ, hoà thuận, chỉ vì chấp trước cho rằng tư tưởng của mình là đúng, không ai nhường nhịn ai.
     Chúng ta vẫn biết, tâm vô thường không phải là gươm đao hay súng đạn, nhưng nó có thể giết chết mình vì bất đồng quan điểm, giết chết mình trong từng ý niệm. Một ý nghĩ vừa dấy lên, muốn lấy trộm đồ của người khác, nếu ta không biết kịp thời ngăn dừng, thì bao tai họa sẽ bắt đầu ập đến bởi tâm tham lam của mình.
    Chính vì vậy, người Phật tử chân chính phải biết tu ngay nơi ý nghĩ ban đầu vừa mới chớm lên, để chuyển hoá chúng trở về bản thể ban đầu. Chúng ta chỉ cần điều phục ngay nơi tâm ý của mình, bằng cách nghĩ điều có lợi cho người và vật, nên duy trì và tiếp tục phát huy.
    Những suy nghĩ làm tổn hại cho người vật thì mình tìm cách chuyển hóa, không cho chúng phát sinh; tu như vậy thì mọi người sẽ được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, khỏi mong cầu đâu xa. 



HOÀN CẢNH VÔ THƯỜNG
    Đức Phật dạy, “mọi hiện tượng, sự vật đều tương quan mật thiết, nương nhờ lẫn nhau, cho nên, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Tất cả các pháp có hình tướng trên thế gian này đều do nhân duyên sanh, nên hoàn cảnh sự vật cũng đều đổi thay vô thường.
    Lớn như quả địa cầu chúng ta đang sống, dù nó có trụ hàng tỉ tỉ năm, nhưng đến một lúc nào đó, nó cũng sẽ hoại diệt, nên Phật nói, “thành-trụ-hoại-không” là vậy.
    Kính thưa quý vị, hoàn cảnh, tức là những sự vật có mặt trong bầu vũ trụ bao la này như trời, đất, trăng, sao, đủ các thứ thiên hình, vạn trạng, cho đến vật nhỏ nhất như hạt cát, hạt bụi, cũng đều bị sự vô thường chi phối, đổi thay.
    Mới xưa kia là lầu cát nguy nga, tráng lệ, mà nay là biển cả mênh mông, xưa là rừng hoang vắng vẻ, nay thì phố xá, chợ búa đông đúc; đó là lẽ đương nhiên thường tình của thế gian. Do hoàn cảnh, sự vật luôn thay đổi, biến dạng, tuỳ theo nhân duyên thuận nghịch, không có gì là cố định, nên nói hoàn cảnh chúng ta đang sống là vô thường.

     Ai cũng biết, con người phải chịu sự chi phối của sinh-già-bệnh-chết, nên gọi là vô thường; còn các vật thể lớn như trời, đất, trăng, sao có chịu sự chi phối của luật vô thường hay không?
     Trong Kinh Kim Cang nói, “phàm cái gì có hình tướng đều hư hoại”. Chính núi sông cũng có lớn, có nhỏ, khi lỡ, khi bồi, rồi thời gian, khí hậu bốn mùa thay đổi, sớm nắng, chiều mưa; mùa nắng thì cây cối ủ rủ, cằn cỗi, héo tàn; mùa mưa thì cây cối xanh tươi, nẩy nở; và thời gian cứ như thế trôi qua nhanh chóng, trên thế gian này không có một thứ gì là cố định; nhưng chúng ta cứ mãi chấp chặt vào đó, cho rằng cái gì cũng thường còn vĩnh viễn, để khi mất mát thì sanh tâm tiếc nuối, khổ đau.

    Tóm lại, chúng ta học đạo lý vô thường để không sanh tâm cống cao, ngã mạn lúc thành công, không bi quan, chán nản khi thất bại, mà biết nhìn nhận đúng lẽ thật cuộc đời để mình sống tốt hơn. Thân của chúng ta cũng phải già-bệnh-chết, mình cũng đâu thể cưỡng lại được, vì bản chất của nó là không thật có, nên gọi là vô thường; còn cái gì thường thì trước sau như một, nguyên vẹn, không bao giờ thay đổi.

    Do chúng ta chấp thân này là thật, nên mới thấy nó cao quý, lâu dài, cố bám víu, đắm say, đam mê, tham lam, giành giựt vì nó. Bởi chúng ta si mê, chấp thân này là thường, tưởng nó là thật, nên mình sanh lòng tham lam, giành lấy mọi thứ về cho riêng mình, mà hễ tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sanh ra oán ghét, hận thù, chờ cơ hội trả đũa.
    Trên cõi đời này, người nào nhận rõ được thân này là vô thường thì ít sanh lòng tham lam, ích kỷ, cho đến khi già-bệnh-chết không lo lắng, sợ hãi, không luyến tiếc một thứ gì. Do đó, khi sống người ấy được bình yên, hạnh phúc, đến khi chết vẫn bình thản, an nhiên, tự tại ra đi.
    Đức Phật chỉ dạy đạo lý vô thường để giúp chúng ta ý thức được cái gì có hình tướng đều hư hoại mà cố gắng tu hành, vượt qua nỗi khổ, niềm đau, biết gầy dựng cuộc sống tốt đẹp ngay tại đây và bây giờ; và cũng nhờ vô thường nên con người cho đến các loài vật mới đổi thay và phát triển sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại.


ÔNG GIÀ VÔ THƯỜNG
     Có một ông già nọ tuổi đã già, nhưng hàng ngày vẫn phải làm lụng vất vả để nuôi thân. Một hôm, sau khi vào rừng đốn củi mang về, vì đường sá xa xôi, lại phải vác nặng, nên ông cụ kiệt sức giữa đường. Ông đặt bó củi xuống đất rồi ngồi than thở một mình, “khổ cho thân già tui quá trời! Đến từng tuổi này mà còn gian nan, vất vả quá chừng! Giá mà bây giờ thần chết đến rước mình đi thì hay biết mấy! Mình muốn bỏ quách cái thân già khốn khổ này đi cho rồi”.
    Ông nói vừa dứt lời, vị thần chết xuất hiện ngay, “ta là thần chết đây, ông lão cần gì, ta sẽ giúp cho ông được toại nguyện?” Ông già nghe nói vậy, sợ quá, run lên cằm cặp nói, “dạ, kính lạy thần chết! Xin ngài nhấc hộ dùm bó củi lên vai để lão vác về kẻo trời tối”.
    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy con người khi khổ quá thì muốn chết, doạ chết, đòi chết, trối chết, nhưng đến khi cái chết đến gần thì sợ hãi, không muốn chết. Ông già tiều phu kia cũng vậy, lúc thấy mình quá khổ, phát sinh ý chết quách để hết khổ, thân xác khỏi phải nhọc nhằn, nhưng khi thần chết hiện ra thì ông hoảng hồn, sợ chết, muốn đặt gánh củi lên vai và cảm thấy việc gánh củi về nhà là điều hạnh phúc nhất.

SỐNG CÓ ÍCH VÌ BIẾT VÔ THƯỜNG
    Đức Phật dạy chúng ta hiểu được lý vô thường, mục đích là để ta biết sống có bổn phận và dám chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của mình đối với gia đình, xã hội, không bi quan, không yếm thế, không chán nản, không buồn lo trước cuộc sống tạm bợ, mong manh này.
    Cũng bởi kiếp người vốn vô thường, ngắn ngủi, mong manh, nên trong Khế Kinh có kể rằng: Có một người chuyên làm việc ác, khi chết bị quỷ sứ bắt vong hồn dẫn đến trình vua Diêm Vương. Vua hỏi, “ở trần gian, sao ngươi không làm việc thiện mà hay làm việc ác như vậy, để bây giờ bị đoạ xuống đây chịu hành hình?” Vong hồn ấy trả lời, “thưa Diêm chúa, ở trần gian chúng tôi, nhà nước muốn làm việc gì còn phải thông báo trước, tại sao ở Âm phủ, Ngài bắt người chết đột ngột thế này, thử hỏi làm sao tôi làm việc thiện cho kịp được?” “ngươi ở trần gian có thường thấy người già, người bệnh, người chết hay không?” “Dạ thưa có.” “Đó là những thông điệp mà ta đã báo trước cho người trần gian biết rồi đấy, ngươi có thấy trên đời này có ai không phải già-bệnh-chết không?” “Dạ thưa không.” “Vậy tại sao ngươi không lo tu tập, lo làm việc thiện, để bây giờ bị giải xuống đây rồi ngươi lại cãi chày, cãi cối với ta?”

    Lúc bấy giờ, một vong hồn trẻ tuổi ngồi bên cạnh liền lên tiếng phản đối Diêm Vương, “dạ thưa Ngài, tôi không chịu đâu, Ngài thật là không công bằng chút nào; đối với ông già kia, Ngài đã gửi nhiều thông điệp cho ông ta, còn tôi Ngài chưa hề gửi cho một thông điệp nào mà bắt tôi xuống đây, thật oan uổng cho tôi quá chừng!” Diêm chúa nghe vong hồn trẻ khiếu nại, liền cười, “tại nhà ngươi không chịu mở mắt to ra mà thấy, chứ ta làm việc rất công bằng, không bao giờ có chuyện thương người này, mà ghét bỏ người kia. Ta lúc nào cũng có gửi tin báo trước cho mọi người hay biết, tại nhà ngươi không chịu để ý đó thôi.” “Ngài gửi thông báo lúc nào, sao tôi không thấy?”     Diêm chúa mới cười nói, “nhà ngươi có thấy đứa bé ở nhà đối diện với ngươi hay không? Nó mới năm tuổi mà bị chết vì tai nạn giao thông đó! Còn ngươi lớn tuổi hơn nó lẽ nào lại không chết. Ta lúc nào cũng công bằng liêm chính, chí công vô tư, tại ngươi không chịu để ý, hoặc ngươi thấy mà vẫn làm càn, làm bướng đó thôi”.

      Đạo Phật dạy, mạng sống con người vốn vô thường, ngắn ngủi, giống như ngọn đèn treo trước gió, có thể bị tắt đi bất cứ lúc nào. Thân người cũng vậy, không phải ai cũng chờ đến già, bệnh mới chết, mà mạng sống kết thúc bất cứ lúc nào với muôn ngàn lý do, vì vậy mà có câu:
Chớ bảo đến già mới tu tập
Mồ hoang cũng lắm kẻ đầu xanh.
      Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết. Chúng ta đừng quá say mê, tham đắm vào xác thân này mà làm khổ luỵ cho nhau. Câu chuyện trên cho ta một bài học đạo lý về mạng sống con người vốn vô thường, tạm bợ. Quý vị nên nhớ rằng, sau khi chết không phải là hết hay mất hẳn, mà chết chỉ là hình thức thay hình, đổi dạng mà thôi, rồi tuỳ theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người đã gieo tạo trong hiện tại, mà cho ra kết quả trong tương lai.
    Thế gian này không có gì là mất hẳn dù là hạt bụi, hạt cát, chúng chỉ thay hình đổi dạng. Hiểu được lý vô thường để mọi người chúng ta sống có ý nghĩa hơn, làm được nhiều điều thiện lành, tốt đẹp, luôn sống có ích cho mình và người trong hiện tại và mai sau.

    Ai sống được như vậy, đến khi thần chết hiện đến, ta không sợ hãi, hốt hoảng, mà bình thản ra đi với một hành trang tốt đẹp; còn những thứ của thế gian như tiền tài, vàng bạc, nhà cửa, mình đều bỏ lại, không mang theo được món nào, lúc ấy chỉ có nghiệp báo tốt, xấu do ta tạo dựng lúc còn sống sẽ theo mình suốt đời mà thôi. Biết được như vậy, lúc lâm chung ta sẽ an lòng ra đi, không tiếc nuối bất cứ một thứ gì của thế gian, kể cả sự sống.

Tạo nghiệp theo sự si mê của súc sinh

NGHIỆP VÀ SỰ SỐNG
    Tất cả mọi người, ai sinh ra trên cõi đời này đều phải chịu sự chi phối của nghiệp. Người Phật tử mà không hiểu rõ ràng, cặn kẽ về nghiệp báo, thì sự tu hành khó mà đạt đến chỗ an lạc, giác ngộ và giải thoát. Vậy nghiệp là gì mà Phật tử chúng ta cần phải hiểu để áp dụng trong đời sống hằng ngày?
    Nghiệp rất đa dạng, phức tạp và phong phú, bởi nghiệp là sự kết tụ của những năng lực, những hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần qua thân-miệng-ý, lâu ngày trở thành thói quen; rồi thói quen đó có sức mạnh chi phối, dẫn dắt thần thức chúng ta đi vào trong luân hồi sanh tử.
    Tuy nghiệp rất đa dạng và phức tạp, không cố định như ta lầm tưởng, do đó mình có thể thay đổi thông qua sự tinh cần tu tập, hành trì những lời Phật dạy, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Nghiệp gồm có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều người, biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng người.

     Nghiệp là thói quen huân tập lâu ngày thuần thục, tạo thành sức mạnh, có khả năng chi phối mọi người sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Ngay từ khi mở mắt chào đời, con người đã chịu nghiệp nhân của quá khứ, dần dần khôn lớn, con người tiếp tục tạo tác và huân tập thêm những nghiệp nhân mới.
    Ai biết sống gần gũi những người hiền thiện, đạo đức, có nhân cách và phẩm chất cao đẹp, hay làm những điều hay lẽ phải, nhờ sống gần người hiền thiện nên mình cũng bắt chước làm người tốt theo, và có thể giúp ích cho gia đình, xã hội, không vì quyền lợi cá nhân.
    Còn người hay sống gần gũi những kẻ xấu ác, bất lương, bất thiện, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, tự làm khổ mình, hại người, và sẽ bị mọi người khinh chê, xa lánh.
    Cũng vậy, chúng ta sanh ra trong cuộc đời này, mỗi người đều phải mang theo nghiệp riêng của mình. Vì thế, trong một gia đình, nhiều người cùng sống chung với nhau, nhưng mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình, nên không ai chịu thừa nhận nghiệp riêng của người khác. Do đó, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em trong nhà không có sự hòa hợp với nhau là vậy đó, vì ta không biết tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau. 

    Chính vì thế, trong một cộng đồng xã hội mới có sự tranh chấp, cãi vã, xung đột, không chịu nhường nhịn, gây đau khổ, bất hạnh cho nhau.Trong gia đình, người chồng huân tập nghiệp của người nam, người vợ huân tập nghiệp của người nữ, hai nghiệp này không giống nhau, đôi khi nghiệp của hai vợ chồng có nhiều điểm sai biệt và tương đồng với nhau. Cho nên, có nhiều cặp vợ chồng gây cãi, đánh đập với nhau hoài, chỉ vì người nào cũng chấp cái lý lẽ, cái hành động của mình là đúng, không chịu thông cảm, tha thứ cho nhau, để tạo nên bầu không khí gia đình ấm êm, an lành, hạnh phúc.

Sư mê tín, không trí tuệ dẫn Phật tử đi sai đường

NGHIỆP CHUNG VÀ NGHIỆP RIÊNG
    Trong thời Phật còn tại thế, tại núi Linh Thứu, cùng lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo ngài Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo ngài Mục Kiền Liên, đoàn thứ ba đi theo ngài Phú Lâu Na, đoàn thứ tư đi theo ngài A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa… Khi thấy các đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói rằng,

 Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Xá Lợi Phất có nghiệp chung với Ngài, nên có trí tuệ đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Mục Kiền Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Phú Lâu Na có cộng nghiệp là thuyết pháp đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài A Na Luật có nghiệp chung là  thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa có nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc, sau này dễ bị đoạ lạc.
   
     Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát nguyện mãnh mẽ và ý thức rằng, làm ác sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
    Phát nguyện để làm mới lại chính mình và tin sâu Tam bảo, giúp chúng ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất hạnh, ta biết đó là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều hơn để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.   
               Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
               Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
               Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm,
               Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
    Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến vinh hoa phú quý, một lòng nhất tâm tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để sống đời trong sạch, giải thoát.
 
TU PHƯỚC VÀ TU HUỆ
TỰ TÁNH TAM BẢO
VÌ CON MẸ CÓ ĐƯỢC HẠNH PHÚC
HÃY TỰ MÌNH VƯỢT QUA NỖI ĐAU
PHẬT HÓA HỮU DUYÊN NHƠN
PHÓNG SINH CHIM TỘI HAY PHƯỚC
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT