Minh Đức
Triều Tâm Ảnh
Người,
vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc… đều nương tựa trên
mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức
Phật… cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai
khác, dị đồng… Tất cả phải nương tựa nơi 10 nghiệp lành vậy. Mười nghiệp lành
không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà
còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng,
học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông
hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa. Người Phật tử sau khi thọ Tam qui, Ngũ giới,
Bát quan trai giới thì nên tu tập thêm thập thiện nghiệp để làm hành trang, tư
lương tối thắng cho mình giữa thế gian cát bụi, lắm nghiệt ngã và nhiều khổ đau
này. Và thập thiện nghiệp ấy là gì?
1. Thân
vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại các loài hữu tình.
Tất thảy
các loài hữu tình, từ bò, bay, máy, cựa, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều
chân cho đến chúng sanh có cánh, không cánh, có vây, không vây… ở trên mặt đất,
dưới biển, ao hồ, sông rạch, trên hư không… chúng đều có sự sống, có thức tánh,
biết đau đớn – thì người Phật tử phải biết tôn trọng, chẳng nên giết hại. Tất
cả các loài, các loại, các giống chúng sanh ấy, do thấp sanh (ẩm ướt, ẩm thấp),
do bàng sanh (súc sanh) hay noãn sanh (trứng), chúng đều do sự chi phối, tác
động của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Khi chúng trả hết ác nghiệp, chúng có
thể trở lại thân người. Trái lại, nếu không tạo trữ phước lành, cứ tà kiến, ngu
si, ác độc làm việc dữ; thì chúng ta cũng phải bị đọa vào các cảnh giới đau khổ
ấy. Để tránh khỏi sự khổ báo và trả vay nhân quả, chúng ta chẳng nên sát sanh
hại vật; dù sinh mạng chúng nhỏ nhiệm thế nào. Nói rộng hơn nữa, ngay chính cây
cối, thảo mộc là loài vô tri, vô giác, không có thức tánh, chúng ta cũng không
nên chặt phá bừa bãi; vì chúng cũng có “sự sống” vậy.
Nếu biết
vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từ; và những
trạng thái tâm ác độc, hung dữ lần hồi sẽ lắng dịu. Tâm từ càng phát triển thì
tâm sân, sát, hận, ưu sẽ không còn. Và khi ấy, người Phật tử sẽ cảm nghe một
năng lực từ hòa, mát mẻ từ bên trong lan tỏa ra bên ngoài, thấm nhuần khắp cả
không gian, người, vật, cây, cỏ… lúc ấy là lúc mà nghiệp lành thứ nhất đã thành
tựu, đã tuyệt hảo, trọn vẹn, viên mãn vậy.
Có thơ
rằng:
“- Muôn
loài sự sống đều nhau
Có thân,
có thức biết đau như mình
Nỡ nào
giết hại hữu tình
Ruột mềm
máu chảy thương sinh não nùng”.
2. Thân
vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, tài sản của người khác.
Của cải,
tài sản, cái ăn, cái mặc, phương tiện, nhu cầu sinh sống của mọi người trên thế
gian; một phần do phước báu tạo trữ từ nhiều kiếp nên được thọ hưởng sung mãn,
dư dật trọn đời; còn đa phần là do lao tâm, lao lực, đổ mồ hôi, sôi nước mắt;
chịu khó làm ăn, trăm phương nghìn kế, thức khuya dậy sớm, chăm chuyên cần mẫn,
biết để dành, vun quén, tiết kiệm… mới có được. Cũng có thứ tài sản, của cải,
gia tài của một số người do làm ăn phi nghĩa, phi nhân, bất chánh. Nhưng chúng
hoạnh phát thì hoạnh tàn, sẽ đi kèm theo định luật nhân quả trả vay ngay hiện
tại hoặc kiếp sau. Và sự báo ứng, tất nhiên, không thể chạy trốn đâu cho khỏi
được.
Như vậy,
của cải, tài sản xét theo mọi lẽ, người Phật tử tự biết, nếu khởi tâm trộm cắp
đã là ý nghĩ bất chánh, đã do lòng tham khởi động, xúi giục, sai bảo. Là nô lệ
của vô minh, ái dục và si mê. Nếu không tỉnh thức, tự chủ, tự chế… thì lòng
tham kia sẽ che mờ tâm trí, bịt mắt lương tri, rồi nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ
tội tù, lao hình thống khổ. Các tội ác khác, đôi khi cũng từ đó mà đồng loạt
dấy sanh. Những mưu mô, thủ đoạn, ác độc, lường gạt, giết người, gian dối, tham
nhũng, hối lộ, san đoạt tài sản… xảy ra hằng ngày hằng giờ trên thế gian, không
là bài học máu xương cho chúng ta suy gẫm hay sao? Và khi ấy, vòng trầm luân
bất định của những con đường đau khổ, một lần rơi đọa, biết mấy triệu kiếp sau
mới trở lại thân người? Chỉ cần một tí liên tưởng, một chút tư duy, người Phật
tử sẽ vĩnh viễn không dám thò tay, nạy cửa, lấy cắp tài sản, của cải của người,
của xã hội. Không những hiện vật có giá trị mà những thứ ít có giá trị hoặc
không có giá trị gì mấy, người Phật tử chơn chính cũng sẽ không lấy khi vật ấy
chưa được cho, chưa được sở hữu chủ bằng lòng, hoan hỷ cho.
Chỉ
“không khởi tâm” trộm cắp, từ bỏ vĩnh viễn không lấy cắp đã là một nghiệp lành
cao cả, sẽ đem đến an vui, an toàn cho mọi người xung quanh và xã hội rồi. Khi
ấy, những hiện vật trưng bày ở những nơi công cộng như công viên, đường sá,
vườn hoa, nhà mát, khu di tích lịch sử, văn hóa… ở đâu đều nguyên vẹn ở đó,
được tất thảy mọi người bảo vệ và tôn trọng. Lúc ấy, nhà nhà không cần đóng
cửa, không ai cần thiết phải kín cổng, cao tường, rào chông mấy lớp. Các loại ổ
khóa không cần dùng. Của rơi dọc đường không ai thèm lượm, nếu nhặt được người
ta sẽ tìm cách hoàn lại cho khổ chủ. Khung cảnh và không khí thanh bình tuyệt
vời ấy quả là thiên đường trần gian, mà con người không thể ước mơ được hay
sao?
Bèn có
thơ rằng:
“-
Trộm cắp, lấy cướp của người
Làm thân
trâu ngựa bao đời trả xong
Lại còn
đói khổ chất chồng
Thây ma,
xác quỷ trôi sông, dạt bờ”.
3. Thân
vĩnh viễn từ bỏ tà dâm, tà hạnh.
Sự chung
thủy vợ chồng là nét đẹp văn hóa truyền thống của nền đạo đức và luân lý Đông
phương. Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình được hạnh phúc, an vui thì xã
hội mới được hạnh phúc, an vui. Thật không thể quan niệm được khi một xã hội
văn minh, tiến bộ, thịnh mãn về vật chất, áo cơm – lại có thể đem đến hạnh phúc
cho mọi nhà, khi “mọi nhà” ấy: vợ chồng tự do ngoại tình, tự do lăng nhăng, tự
do bỏ vợ, bỏ chồng để đi tư tình, thương yêu người khác! Tục ngữ nói: “Thuận vợ
thuận chồng, tát biển đông cũng cạn”. Thuận là hòa thuận. Hòa thuận là do
thương yêu, hòa hợp, đùm bọc, chia sẻ ấm lạnh ngọt bùi, vui buồn gian khổ có
nhau, không bao giờ phụ rẫy, hắt hủi, bạc tình, bạc nghĩa với nhau.
Đạo Phật là
đạo xuất ly thế gian nhưng mà không đoạn tuyệt thế gian; vẫn phân biệt rõ ràng
đâu là hạnh phúc thế gian đâu là hạnh phúc siêu thế. Và đối với người cư sĩ,
hạnh phúc gia đình luôn được đức Phật nhắc nhở, dạy bảo. Lác đác trong kinh
điển, đức Phật thường giáo giới đến hàng tại gia biết cách vun quén, xây dựng
và bảo vệ hạnh phúc gia đình mình. Những bổn phận của vợ đối với chồng, của
chồng đối với vợ, trong đó sự thương yêu và lòng chung thủy luôn được xem trọng
hàng đầu. Như vậy, khi muốn gia đình mình được hạnh phúc, an vui thì ta không
nên phá hoại hạnh phúc và an vui của gia đình người khác.
Khi vợ
chồng không còn thương yêu, chung thủy; lại đem san sẻ tình yêu cho người khác;
thì những gấu ó, bất hòa, lời qua tiếng lại, “ông ăn chả, bà ăn nem” đưa đến
phân ly, tan nát là một viễn cảnh vô cùng đen tối. Con cái, từ đó sẽ không có
nơi nương tựa khi vợ chồng ly thân hoặc ly dị. Chúng sẽ sinh ra hư hỏng, cướp
của, giết người, xì-ke, ma tuý, hình lao, tù tội… thật không mấy xa! Thiếu vòng
tay mái ấm gia đình, chúng sẽ mất niềm tin với đời, trái tim sẽ băng lạnh, nhân
tính biến đổi…
Có thơ
rằng:
“- Thương
nhau sao nỡ phụ nhau
Bạc tình,
bạc nghĩa ôm bầu trăng hoa
Thói quen
ác hạnh, dâm tà
Nát tan
mái ấm, chết sa khổ đồ”.
4. Khẩu
vĩnh viễn từ bỏ lời nói dối.
Thế gian
ai cũng ưa ăn ngay nói thật. Lời nói chơn chánh, chân thực, biểu hiện đức độ,
sức mạnh nội tâm, đem đến sự tin tưởng, tin cậy, tín cẩn ngọt ngào và dễ mến
giữa cuộc đời này. Những kẻ có nói không, không nói có, bóp méo sự thật, xuyên
tạc lẽ phải thường đem đến nhiều nguy hại, khổ đau và bóng tối cho trần gian
biết là ngần nào?
- Có lời
nói dối đưa đến chém giết, hận thù.
- Có lời
nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản.
- Có lời
nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác.
- Có lời
nói dối đưa kẻ khác đến tội tù, gia đình người ta phân ly, tan nát.
- Có lời
nói dối chận đứng sự tiến thân, danh vọng hoặc sự nghiệp của người khác.
- Có lời
nói dối làm cho người ta tức uất thổ huyết mà chết.
- Có lời
nói dối đưa đến ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm.
- Có lời
nói dối làm cho người thân, huynh đệ, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau…
Là người
Phật tử, chỉ có việc “từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối” đã là tốt đẹp và cao cả lắm
rồi. Trên phương diện tương quan nhân quả, nghiệp lành này mang đến cho cuộc
đời sự bình yên; hoặc ít ra là tạo được không khí trong lành, không bị ô nhiễm
bởi những tác hại do những lời nói dối gây ra. Ôi! cuộc đời này sẽ dịu dàng và
tinh khiết dường bao khi xung quanh ta đều là những người không biết nói dối,
không bao giờ nói dối!
Chư Bồ-tát, các bậc Thánh nhân dù họ có lìa bỏ sanh
mạng, bị hành thân hoại thể, bị sỉ nhục đắng cay; chắc chắn không vì vậy mà nói
dối hại người! Vậy, không nói dối là phẩm chất cao thượng, là đức tính quí báu
mà ai cũng có sẵn trong chính mình; cần được bảo vệ, phát huy và trưởng dưỡng
cho đến độ viên mãn.
Bèn có
thơ rằng:
“- Lời
nói chẳng mất tiền mua
Tự tâm có
sẵn, vốn xưa đầy bồ
Lìa xa
dối vạy quanh co
Ngữ ngôn
chân thật, thước đo đạo tràng”.
5. Khẩu
vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo.
Lời nói
dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc
ác hơn nhiều. Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở
mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã cương mãnh
hơn nhiều. Đã trở nên mù quáng lý trí, đã đánh mất nhân tính, đã rời xa đạo
đức, luân lý và lẽ phải ở đời. Tham sân ở đây đã trở nên tham độc và sân độc,
đã biến con người đầy đủ nhân tính, thiện lương thành các loài rắn rít, bò cạp
hoặc độc trùng ghê tởm khác. Là người Phật tử chơn chánh, không những phải giữ
trọn nghiệp lành không nói dối mà còn biết từ bỏ vĩnh viễn lời nói vu oan, vu
cáo, giá họa, đẩy người khác đến chỗ không tội mà thành tội, không làm mà thành
làm, xô người khác vào vực thẳm tội tù hoặc suốt đời bị đọa đày, oan khuất, tối
tăm, thống khổ.
Cho nên
có thơ rằng:
“- Vu
oan, vu cáo hại người
Một lời
giá họa nặng mười ác tâm
Độc
trùng, dã thú chớ gần
Miệng lời
rắn rít, lụy thân nhiều đời”.
6. Khẩu
vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ…
Tuy những
lời nói thuộc loại này không ác độc bằng hai cách nói trên nhưng cũng chẳng hay
ho, tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại cả. Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng
nhiếc… biểu hiện một trạng thái tâm chưa được huấn luyện. Ấy là cái tâm đang
còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia
phong, lễ giáo nề nếp con nhà! Những lời nói như thế ấy làm đau lòng người
khác, thường đưa đến sự xô xát, đánh đập tay chân hoặc đùi gậy, dao búa đến sứt
đầu, bể trán mà thôi. Người có học thức, hiểu biết, nội tâm đã được huấn luyện,
có tu tập; thường dễ dàng tránh xa những lời nói kiểu này. Là Phật tử chơn
chánh, ngôn ngữ nói ra phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe. Người ta thường
ví miệng thơm như hoa lan để nói đến người có lời nói chân thật, ái từ là vậy.
Có thơ
rằng:
“- Cộc
cằn, thô lỗ ai ưa?
Lựa lời
mà nói cho vừa lòng nhau
Tâm hoa
thơm ngát, thơm lâu
Từ hoà,
ái ngữ một câu miệng vàng”.
7. Khẩu
vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm…
Những
cách nói như thế ấy quả là làm mất thì giờ vô ích. Chỉ có kẻ ngồi lê đôi mách,
ăn rỗi ở thì, nội tâm trống rỗng, không có việc làm, không đọc kinh sách, nhàn
cư, thiểu học… mới rơi vào trường hợp này. Người xưa nói: Một ngày không đọc
sách, một ngày hôi miệng! Thế còn những kẻ rỗng không, vô tích sự, giết thì giờ
trong những câu chuyện tục tĩu, nhảm nhí thì nội tâm và trí óc họ chứa đựng
những gì?! Vậy, người Phật tử chơn chánh có Tam qui, Ngũ giới, có tu tập và
biết phát triển những nghiệp lành, đừng nên coi những cách nói rỗng không, nhảm
nhí… là chuyện nhỏ mọn! Một hạt bụi tí ti rơi vào mắt cũng làm cho mắt phải bị
nhức nhối, xốn xang. Một chút dơ uế lấm lem vào tâm, khinh thường lâu ngày thì
cái tâm kia cũng trở nên đen đúa và xấu xa! Những giọt nước rỉ từng giọt lâu
ngày cũng đầy tràn sông hồ, ao biển… đúng như câu kinh Pháp cú số 121:
“- Nước
rơi từng giọt giọt thôi
Lâu ngày
chầy tháng đến hồi tràn lu
Chút chút
việc ác, mặc dù
Ngày qua
tháng lại, người ngu ác đầy!”
Những lời
nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích… lâu ngày thành thói quen, tích lũy
thành nghiệp ác. Những lời nói bỡn cợt, ba lơn, ba láp, ba xàm; ban đầu tưởng
là vô hại, nhưng lâu dần chúng trở thành cá tính khó rời; khiến ta thành kẻ
không đứng đắn, thiếu tư cách, mất phẩm chất thật là uổng phí vậy. Khi mà đã
trở thành như thế thì kẻ ấy dù có chân đứng, địa vị, danh vọng và sự nghiệp gì
trên cuộc đời cũng sẽ bị người coi khinh, khi rẻ, nhạo báng, xem thường!
Cho nên
có thơ rằng:
“- Rỗng
không, tục tĩu, vô duyên
Miệng lời
nhảm nhí, trí hiền chẳng ưa
Chẳng nên
thêu dệt thiếu thừa
Đẹp ngôn,
đẹp khuẩu lại vừa thơm hương”.
8. Ý vĩnh
viễn từ bỏ sự tham lam
Có những
mong muốn, ước muốn bình thường trong đời sống mà chẳng phải tham lam. Ví dụ
đói muốn ăn, khát muốn uống. Hoặc, ta mong muốn làm một điều gì, muốn thực hiện
một việc gì… Tất cả những mong muốn ấy, theo Abhidhamma, nó là “chanda”, là dục
tâm sở; chỉ mới là ước muốn thuần túy chưa quyết định thiện ác. Còn tham lam là
do tâm sở “lobha” hay “abhijjā”, có trạng thái dính mắc, có sự tham dự của tư tâm
sở (cetanā) mới tạo thành nghiệp. Do vậy, khi tâm tham khởi thì những tâm sở
bất thiện đồng khởi theo để tạo tác tất cả những việc xấu ác trên trần đời!
Lòng tham
ấy sẽ được hiện khởi từ các tâm trạng sau đây:
- Không
bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có.
- Không
bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật
này, vật kia… tương tự như tục ngữ: “đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi
tiên”.
- Luôn
luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.
- Luôn
muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.
Nói rộng
hơn, nhưng cũng cô đọng hơn là lòng tham được thỏa mãn lục trần: sắc đẹp, tiếng
hay, mùi thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái cùng những tham vọng về tinh thần. Đấy
là những tham vọng về quyền lực, danh vọng, sự nghiệp, bá chủ, thần thông, phép
lạ… Lòng tham ấy đã tung rải biết bao nhiêu bóng tối, đau khổ và tang thương
cho nhân loại từ xưa đến nay! Thế giới lục trần tươi đẹp và hào nhoáng ấy là
đóa hồng diễm kiều hương sắc nhưng lại đầy gai máu! Nó là vực thẳm chông nhọn
được trải bằng tấm thảm nhung êm. Nó là mồ chôn biết bao sa-môn, đạo sĩ, đế
vương, công hầu, khanh tướng, tỷ phú, triệu phú, anh hùng, quân tử, mỹ nhân, vĩ
nhân, danh nhân, thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ và cả những khoa học gia danh tiếng
lẫy lừng… Lòng tham ma vương không chừa một ai trên trần thế! Tham ít khổ ít,
tham nhiều khổ nhiều, đấy là định luật tất yếu! Là sức dội lại của quả bóng tuỳ
thuộc lực ném vào tường! Là sự bỏng cháy nhiều ít do các ngón tay hay bàn tay
vọc lửa! Vậy, người Phật tử chơn chánh muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì
phải biết nghe lời từ bi và trí tuệ của đức Đại Giác; phải biết vĩnh viễn từ bỏ
lòng tham này vì lợi ích cho mình và cho người. Đây là nghiệp lành vừa có phước
báu nhân thiên vừa gieo duyên với cứu cánh giải thoát tối hậu.
Có thơ
rằng:
“- Lửa
nào hơn được lửa tham
Đốt trái
tim, cháy lầm than kiếp người
Lá hoa,
cây cỏ thắm tươi
Vô tham
hạt giống, đâm chồi tự do!”
9. Ý vĩnh
viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)
Tâm sân
do chữ dosa. Theo Abhidhamma, tâm sân không bao giờ khởi một mình, tuỳ theo
cường độ, tính chất của nó mà các tâm sở tương ứng cùng khởi theo. Ví dụ: tật,
xan, hối… Theo cách hiểu thông thường, sân mà còn hận nữa thì cường độ sân ấy
đã tăng thêm một bậc, có thể thiêu huỷ, đốt cháy các đối tượng. Lửa sân hận rất
khủng khiếp, nó có thể tạo nên các tội ác trên cuộc đời, nó có thể đốt cháy tất
thảy mọi ruộng vườn công đức, phước báu. Người có trí, có căn bản giáo pháp, có
tu tuệ quán, có thể biết được sự hiện khởi của tâm sân ấy qua mấy dạng sau đây:
- Sân
bình thường, tức là sân do phản ứng tự nhiên của tâm sinh lý; chưa có hại, chưa
tạo nghiệp.
Ví dụ:
Thấy khó chịu khi nghe một âm thanh quá lớn. Trời nóng thì cảm thấy bực bội.
Thấy điều ác, không ưa…
- Những
điều trái ý, nghịch lòng nếu cứ gặp mãi thì trạng thái sân này sẽ gia tăng, cứ
âm ỉ thiêu đốt ở trong lòng. Như vậy là từ sân bình thường (dosa), sân ấy đã
chuyển sang ưu (domanassa).
- Nếu ưu
càng gia tăng, mới nghĩ đến đối tượng đã không còn chịu nổi, muốn đập phá, muốn
tiêu diệt đối tượng. Trạng thái tâm lý này đã chuyển thành hận (pāṭigha).
Tuy
nhiên, ưu và hận sẽ không khởi một mình mà nó còn đi theo những tâm sở khác:
tật, xan, hối… để tạo thành nghiệp. Do vậy, sân hận sẽ gia tăng cường độ rất
nguy hiểm, càng lúc càng không thể kềm chế nổi. Nó có thể hủy diệt nhân loại,
thiêu cháy một làng, một xóm. Nó có thể tạo ngũ nghịch đại tội. Nó có thể đưa
chúng sanh vào hằng trăm loại địa ngục đồng sôi, lửa đốt, dao đâm, vạc dầu…
thật vô vàn thống khổ. Biết sự nguy hại của sân hận, người Phật tử chơn chánh
nguyện phát triển nghiệp lành này, bằng cách tỉnh niệm thường xuyên để thấy rõ
sự dấy khởi của nó và vĩnh viễn từ bỏ, loại trừ ưu và hận ra khỏi tâm. Theo
Abhidhamma, vô sân đồng nghĩa với tâm từ vô lượng, nên sự an lành và mát mẻ của
nó đúng là môi trường sinh thái tốt lành cho người, vật, chim muông, cây cỏ.
Bèn có
thơ rằng:
“- Không
sân, mát mẻ xiết bao
Cây lành
trái ngọt, ngát ngào hương hoa
Suối
trong giữa cõi ta-bà
Tình xanh
nhân ái, hoan ca thái bình”.
10. Ý
vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)
Tà kiến
là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy
được cái chơn, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng
chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là
sự thật; rồi còn ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính
thật là tà kiến. Những người học Phật thường gọi danh những người chấp đoạn là
đoạn kiến, chấp thường là thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến chính là tà
kiến vậy.
Đoạn kiến
là quan niệm cho rằng chết là hết, không còn gì. Không có kiếp này, kiếp kia,
không có thiện ác, không có thiên đường, địa ngục, không có nhân quả báo ứng.
Và, đạo đức, luân lý trên thế gian chỉ là trò u mê, ngốc nghếch! Vậy hãy hưởng
thụ thân xác, làm cho “cái ta” hiện giờ đây được sung sướng, cực lạc. Hưởng thụ
dục lạc ngũ trần chính là Niết-bàn vậy. Các nhà đoạn kiến có quan niệm như vậy
rồi dạy môn đệ, viết sách để quảng bá tư tưởng ấy. Chủ nghĩa duy vật chất, chủ
nghĩa hư vô, chủ nghĩa hiện sinh rơi vào đoạn kiến này.
Thường
kiến có quan điểm cho rằng có một linh hồn, một tự ngã thường hằng bất biến,
không thay đổi, đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Do vậy, kiếp này làm vua
thì kiếp sau cũng làm vua. Thương gia, tướng cướp, cùng đinh hoặc đui, què, mẻ
sứt… kiếp này thì kiếp sau cũng y như thế. Làm thiện chẳng có tích sự gì, làm
việc ác mà được sung sướng thì cứ làm. Nhân, nghĩa, đạo đức, luân lý là con
ngáo ộp dọa người đó thôi. Chúng ta do Thượng đế đã cho giàu sang thì sẽ giàu
sang mãi mãi…
Như vậy,
đoạn kiến và thường kiến đã đầu độc thế gian, làm cho thế gian đổ nát, hoang
vu, điêu tàn, băng hoại. Nó thiêu huỷ, đốt cháy đạo đức, nhân luân, nhân tính
cùng các giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả khác. Ngoài ra, rải rác trong
kinh điển, còn có những cái gọi là biên kiến, kiến kiết phược, kiến hoang vu,
kiến sa mạc, kiến điên đảo, kiến rừng rậm… đều là bà con họ hàng với tà kiến cả
vậy. Người Phật tử phải biết chuyển cái thấy sai thành cái thấy đúng, cái thấy
nghiêng lệch bằng cái thấy chính chơn, nghĩa là phải biết chuyển tà kiến thành
chánh kiến. Thế chánh kiến là gì?
Chánh
kiến là gọi tắt của chánh tri kiến (thấy biết chơn chánh). Chánh tri kiến là
gọi tắt của chánh kiến, chánh văn, chánh giác, chánh tri. Và “kiến, văn, giác,
tri” là thế nào?
- Mắt
thấy sắc như thực, nghĩa là sắc như thế nào phải thấy sắc như thế ấy. Thấy một
cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý kiến, tình cảm của mình
vào: ấy được gọi là chánh kiến.
- Tai
nghe âm thanh như thực, nghĩa là âm thanh như thế nào phải nghe âm thanh đúng
như thế. Nghe một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm,
tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh văn.
- Mũi
ngửi hương như thực, nghĩa là hương như thế nào phải biết hương như thế ấy, một
cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình
vào: ấy được gọi là chánh giác.
- Lưỡi
nếm vị như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.
- Thân
xúc chạm như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.
- Ý biết
pháp như thực. Nghĩa là pháp nào thì phải biết cho đúng như thực với pháp ấy;
đừng suy diễn ra, đừng tưởng tượng thêm, đừng dịch giảng lung tung! Ngoài ra,
những thu góp tin tức từ các tiền trạm thông tin mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như
thế nào; khi vào đến ý phải phản ánh cho trung thực, không bị méo mó, lệch lạc…
thì được gọi là chánh tri, tức biết như chơn như chánh vậy.
Kiến,
văn, giác, tri là gọi tắt của sự thấy, biết, cảm giác, tri giác của mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý đối với đối tượng lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Kiến, văn, giác, tri như thực được gọi là chánh kiến. Từ chánh kiến với
nghĩa rốt ráo, tinh tủy, căn bản này, người Phật tử sẽ có được đức tin chơn chánh,
không bị rơi vào các loại tà kiến phức nhiễu, hỗn loạn đang vấy độc giữa cuộc
đời; không bao giờ còn bị ru ngủ, bị mê lẩn bởi các tôn giáo thần linh huyễn
hoặc; những triết thuyết, học thuyết cao đại, khoa trương nhưng thiển cận, rối
rắm, tơ vò; những mê tín nhân gian bậy bạ, mù quáng nữa. Chánh kiến thuộc tuệ
phần, quan trọng nhất trong con đường Thánh đạo có 8 nhánh. Vậy chuyển tà kiến
thành chánh kiến đúng là nghiệp lành tối thượng, cao cả nhất để đến nơi giải
thoát, an vui, chân hạnh phúc.
Bèn có thơ
rằng:
“- Lưới
mê trói buộc đã nhiều
Ngu si,
tà kiến trăm điều đắng cay
Hành
trang chơn chánh cầm tay
Tâm
trong, trí sáng, non tây ta về”.
Kết luận,
Mười
nghiệp lành như vậy là thân có 3, khẩu có 4 và ý có 3. Nếu thân khẩu ý được
điều tiết, thu thúc, gìn giữ, bảo trọng, phát huy và tăng trưởng 10 nghiệp lành
này, được gọi là thân khẩu ý trọn lành hay tam nghiệp trọn lành. Lúc 10 nghiệp
trọn lành là người Phật tử vĩnh viễn đóng cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
a-tu-la, có thể mở cửa nhân thiên và thênh thang bước vào đại lộ huy hoàng của
an vui và hạnh phúc. Đời kiếp nào cũng không còn rơi đọa vào các cảnh giới đau
khổ, miền biên địa, chốn man di mọi rợ hoặc các giống dòng, gia tộc ngoại đạo,
tà kiến. Trong các cõi trời và người, đi đâu họ cũng gặp Phật pháp, thiện trí
thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành thù thắng và tối thượng.
Sau khi
cuộc lang thang đã mãn, tín, giới, văn, thí, tuệ đã đầy, ba-la-mật đã đủ; nếu
muốn, họ dễ dàng chứng quả Tứ Thánh và đắc Niết-bàn để thọ hưởng hạnh phúc siêu
thế. Tất cả chúng sanh trong 3 cõi, 6 đường đều phải biết nương nhờ 10 nghiệp
lành này như một kim chỉ nam vô giá quyết định phương hướng cho hạnh phúc các
kiếp sống. Thanh Văn Phật, Độc Giác Phật cũng nương nhờ 10 nghiệp lành này mà
đầy đủ tâm, đầy đủ tuệ để tận lìa phiền não. Đức Đại Bồ Tát của chúng ta cũng
từ 10 nghiệp lành này mà thành tựu 8 minh và 15 hạnh, đắc quả Chánh Đẳng Giác
vậy.
Bèn có
thơ rằng:
“- Trọn
lành mười nghiệp ra đi
Ngán gì
gió chướng, sá chi bụi hồng
Trời,
người các cõi thong dong
Phúc đầy,
duyên đủ vượt dòng tử sinh!”
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 24 (TỪ BI & TRÍ TUỆ)
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2013/11/phat-hoc-tinh-quang-so-24-tu-bi-tri-tue.html
CÚNG SAO GIẢI HẠN
ĐẦU NĂM ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
http://lotus-lantern-canada.blogspot.ca/2014/02/au-nam-i-chua-ung-chanh-phap.html
PHÓNG SINH CHIM TỘI HAY PHƯỚC
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
CÂU CHUYỆN VỀ BUÔNG XẢ
PHÁ RỪNG TRE GAI
TRÍ TUỆ VÀ PHƯỚC ĐỨC THEO LỜI PHẬT DẠY
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT