XUÂN TRONG
NÉT ĐẸP NGƯỜI TU
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Nhân
dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã
của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
Một
sức sống vui tươi vô cùng kỳ diệu khi nhìn cảnh sắc xinh tươi của "Mùa
Xuân", tâm tình ai ai cũng cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ đón mừng mùa
xuân an lạc hạnh phúc, cát tường như ý. Hương xuân làm con người lạc
quan yêu đời, cũng là thời gian mà người tu tâm dưỡng tánh có thể chuyển
mình tự đứng lên, vượt thoát quá khứ nhiều phiền não, nhìn về tương lai
đầy hứa hẹn.
Đệ
tử Phật gia ai ai cũng mong ước được vô lượng an lạc, vạn sự cát tường,
Phật sự hanh thông, Phật đạo viên thành và đạt được mùa xuân miên viễn,
như những lời chúc đầy đạo vị mỗi khi xuân về. Mong ước đạt được những
điều chúc tụng đầy ý nghĩa trong dịp xuân về, người con Phật nên hiểu rõ
ràng về giáo lý nhân quả và sự thực hành đúng chánh pháp, áp dụng giáo
lý đạo Phật trong đời sống hằng ngày.
Điều
quan trọng vô cùng sâu sắc của Phật pháp, thể hiện qua giá trị nhân
cách sống cao thượng chân chánh của người tu, đó chính là "Xuân trong nét đẹp của người tu", kết quả là sự an lạc cát tường như ý, không mong cầu cũng luôn luôn hiện hữu.
NGƯỜI TU XUẤT GIA
Theo
sự tích của Đức Phật, hình ảnh thanh tịnh, từ tốn, bước chân an lạc
xuất trần của một vị Sa môn, cùng tấm áo cà sa đơn giản, đầu trần chân
đất, cuộc sống ung dung tự tại đã làm Thái Tử Tất Đạt Đa xúc động. Xuất
thân từ cung vàng điện ngọc, địa vị cao sang quyền quí tột đỉnh, nhưng
cuộc sống của vị Sa môn Cồ Đàm đơn giản thuần khiết, cơ cực khổ hạnh thể
hiện qua một con người siêu việt xuất thế. Đức Phật là nét đẹp đạo hạnh
đầy đủ "Từ bi và Trí tuệ". Sự kính phục
tuyệt đối của nhân loại về chân lý đạt đến cứu cánh giải thoát sanh tử,
ngàn đời nay đến đời sau đối với Ngài là vô cùng vô tận.
Sống
trong giới pháp của Đức Phật, người tu xuất gia không phải bận rộn
miếng cơm manh áo, không lo toan chuyện thị phi thế gian, là đang được
hưởng gia tài của cha lành Thế Tôn để lại. Trên bước đường hành đạo, có
nhiều chông gai trắc trở, đồng thời cũng có nhiều cám dỗ của vật chất
danh lợi trong giai đoạn tự chế ngự bản thân, đó là thử thách, rèn luyện
công phu tu tâm dưỡng tánh.
Đối
với mùa xuân mỗi năm qua mau, kiếp sống con người thật ngắn ngủi, nếp
sống thanh tịnh trầm mặc của các vị tu sĩ là khép lại bớt lục căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Mắt: Không thấy vật chất là vĩnh cửu, là quí giá, cần nắm giữ cho riêng mình.
Tai: Không nghe nhiều, không chấp vào tiếng khen chê, sanh tâm thương ghét phân biệt.
Mũi: Không để cho mùi vị, hương lạ làm tâm tán loạn, sanh tâm mê đắm, thích hưởng thụ.
Lưỡi: Không để cho cảm giác ngon dở, ưa thích sai khiến, tạo nghiệp chẳng lành.
Thân: Không hơn thua, đẹp xấu phô trương, sanh lòng khinh mạn đua đòi.
Ý: Không để cho ý sanh vọng tưởng điên đảo, tâm thức tán loạn sẽ rơi vào tội lỗi.
Chứng
thực cho sự giải thoát của con người, là được sống thảnh thơi trong an
nhàn, tâm an tĩnh, trí sáng suốt, rời xa những bon chen, xô bồ của cuộc
sống thường ngày, rời xa vòng danh lợi thế gian, thoát khỏi bể khổ trầm
luân. Ấy chính là khi Tâm ta hoàn toàn an tĩnh.
"Nét đẹp của người xuất gia"
không phải là hình tướng khác thường bên ngoài, không phải mũ cao, áo
thêu áo gấm, đủ màu đủ sắc. Xuân đối với người xuất gia là cái đẹp trong
sáng ở nội tâm, khi Tâm thanh tịnh, rời xa được lòng tham lam, sân hận,
si mê, nhân cách thuần hậu, nguyện đem lợi lạc cho mình cho người.
Tâm hạnh người xuất gia cao thượng chân thật vô ngã vị tha, ắt sẽ đạt đến Niết bàn vô lượng an lạc, đó là "Xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia", cũng là giá trị hạnh phúc bất tận cho người tu ngay tại thế gian.
NÉT ĐẸP CỦA
NGƯỜI TU TẠI GIA
Đạo
Phật không đòi hỏi mọi người đều phải lên Chùa để tu, cầu Kinh sớm hôm
và hàng ngày phải ăn chay khổ hạnh hay buộc phải hoàn toàn cắt đứt tất
cả tình thương với người thân, mới gọi là biết tu. Ý nghĩa của chữ TU là
tu tâm sửa tánh. Đức Phật dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhất".
Khi
những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ
chế ngự được tham lam, sân hận, si mê. Kết quả thực tế, cũng là phần
thưởng cho những cố gắng, nổ lực không ngừng của người tu tại gia, trước
mắt là những chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.
Một
người yếu đuối sợ khó khăn, tâm tánh ích kỷ, thích mơ mộng danh lợi,
đòi hỏi nhiều về thú vui vật chất riêng bản thân, muốn một cuộc sống "tu tại gia" không
dễ dàng thực hiện được. Một ví dụ, như làm cha mẹ muốn tu tại gia, vừa
trách nhiệm lo miếng cơm manh áo cho gia đình, cho các con, lại còn phải
hộ trì Tam Bảo, tu học Phật pháp, niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh, tự
soi rọi thanh lọc tâm, không phải ai cũng làm được. Nếu thực hành vẹn
toàn được công phu "tu tại gia", người tu luôn luôn chịu hy sinh rất nhiều cho riêng bản thân mình, tâm ý cao thượng khó làm khó thực hiện, nhưng đó chính là môi trường tu tâm dưỡng tánh tuyệt vời nhất.
Người
muốn tu, ở hoàn cảnh nào cũng tu được, nếu hiểu được cách tu theo lời
Phật dạy, nghĩa là áp dụng tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả, khoan dung
rộng lượng trong đối xử, biết tự kềm chế thú vui vật chất, mạnh dạn hy
sinh lợi ích cá nhân, biết xả bỏ ích kỷ nhỏ nhen. Người tu tại gia tự độ
và còn có thể độ được cho những người thân trong gia đình và làm tấm
gương cho con cháu noi theo. Sống biết đủ, không đòi hỏi nhiều, không
bận rộn vào cuộc vui vô nghĩa, người "tu tại gia" sẽ có rất nhiều thời gian cho việc nghiên tầm kinh điển, tu học để khai sáng trí tuệ, trưởng dưỡng từ bi.
"Nét đẹp của người tu tại gia" là
cuộc sống chân thật hồn nhiên, một nhân cách trong sạch và một tâm Bồ
Tát tại gia vô chấp vô phân biệt, vượt qua được hình tướng xuất gia,
nhưng vẫn có thể thành tựu đạo nghiệp. Người "tu tại gia" có thể đem lại
cho mình, cho những người thân sống chung quanh sự bình yên tuyệt đối
trong tâm hồn, sự thoải mái vô cùng qua cung cách cư xử trong từng cử
chỉ, lời nói, việc làm cũng như ý nghĩ. Đó là ý nghĩa vi diệu tuyệt vời "Xuân trong nét đẹp người tu tại gia", ngay từ những điều vô cùng giản dị trong cuộc sống hằng ngày.
Tóm
lại, mùa xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia hay tại gia là ở tâm
hạnh của Bồ Tát, nhân cách nghiêm tịnh, giới đức khiêm cung.
Được
gần các "Bậc Thiện Nhân" con người sẽ cảm nhận vô lượng an lạc hạnh
phúc, như được hưởng gió mát và ánh nắng ấm áp, đầy đạo vị của những
cánh hoa xuân tươi đẹp.
- Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp.
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
- Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp.
- Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
- Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn đẹp.
- Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn ngữ đẹp.
- Không khởi tà niệm, tâm luôn chánh trực, đó là ý đẹp.
- Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
- Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
- Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối thắng.
Mùa
xuân tuyệt đẹp với một tâm thức an bình tự tại, người biết tu hãy quay
trở về nội tâm, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trưởng dưỡng tâm từ bi,
thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình, để ngộ ra "ý xuân vi diệu" này.
Có
như vậy, ta mới có thể thanh thản sống đời, không tự ti cũng không tự
tôn, với cái nhìn tự tại, vô úy giữa muôn sự có không, đúng sai, hơn
thua, được mất, vinh nhục. Ở thế gian tất cả các pháp sanh diệt đều là
vô thường.
"Mùa
xuân trong nét đẹp người tu" mới thật sự đem lại thân tâm an lạc, phước
trí trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện, vạn sự cát tường. []
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

THA
THỨ CHO NGƯỜI
TK
Thích Chân Tuệ
Một thiền sinh hỏi:
“Thưa sư phụ, con đau
khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá
hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp:
“Con ngồi xuống tịnh tâm,
tha thứ hết cho họ”.
Vài hôm sau, người đệ
tử trở lại:
“Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật
nhẹ cả người! Coi như xong!”
Sư phụ đáp:
“Chưa xong, con về
tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ”.
Người đệ tử gải đầu:
“Tha thứ thôi cũng đã
quá khó, lại phải thương yêu họ thì… Thôi được, con sẽ làm”
Một tuần sau, người đệ
tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những
người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.
Sư phụ gật gù bảo:
“Tốt! Bây giờ con về
tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ
hội tiến hóa tâm linh như vậy”.
Người đệ tử trở lại,
lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở.
Anh tuyên bố:
“Con đã học được và
ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười:
“Vậy thì con về tịnh
tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha
thứ hay không tha thứ.”
SUY
NGẪM:
Câu chuyện thật ý
nghĩa, chúng ta có thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những
đau thương, bất công trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông
xuống.
Tha thứ giúp cho chúng
ta mở rộng lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng
lượng khi đánh mất lòng khoan dung.
Tha thứ chính là một
tiến trình tiến hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và
buông xuống những đau thương, mất mát, bất công… chúng ta sẽ không còn mang
lòng oán hận, giận dữ…
từ đó giúp cho chúng
ta không nuôi dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù…
để rồi tạo thêm những
điều bất thiện ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.
Qua đó, chúng ta nhận
rõ tha thứ giúp cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai.
Vì vậy, có thể nói
rằng “tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình”,
vì khi chúng ta buông
bỏ lòng thù hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an.
Tâm bình an sẽ là chất
liệu để tạo dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.
Đọc và suy ngẫm câu
chuyện một lần nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ ,
bạn sẽ có lại tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy
lâu mình đánh mất vì thiếu lòng khoan dung , hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ
ơn tất cả đã cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn
bình đẳng”.
Trên bước đường tu tập
của người con Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa
đến cho mình nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của
chính mình.
Nghịch tăng thượng duyên
là vậy!
Thật vậy, nếu lúc nào
cũng thuận duyên, cũng đều được quí mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự
hào, hãnh diện , ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn… tự đánh
mất chính mình lúc nào không hay.
Vì vậy, vị Sư đã dạy
người học trò của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những
phiền não, oan uổng…. để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và
chuyển hóa nội tâm, để nhận chân sự thật “chẳng có ai là người tha thứ và được
tha thứ cả!”
Với tôi, việc học cách
tha thứ và hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ không phải đơn giản và
dễ dàng nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn và tôi đã bắt đầu cho
những sự việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung
quanh…để có được sự bình an hạnh phúc chân thật!
Cổ Đức có câu này:
Càng buông bỏ dưới
chân này.Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao. Tha thứ hay không tha thứ là lối
suy nghĩ nhị biên.
Con người thường sống
trong thế giới nhị biên nên thường phiền não và khổ đau.
Thế giới nhị biên là
sự suy nghĩ: thị/phi, đúng/sai, phải/quấy, tốt/xấu, trắng/đen.
Người nào đạt được
"thế giới bất nhị" hay hiểu được và hành được "pháp môn bất
nhị"
người đó đạt an lạc và
hạnh phúc, xa hơn, người đó đạt được "giác ngộ và giải
thoát".
LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?

*BÓI TUỔI HẠP.
- Mẹ ơi! Con thật là khổ vì ông chồng nhiều lắm!
- Tại sao vậy?
- Ông ấy luôn gây gỗ với con, khi con thích mua sắm.
Vậy mà ngày xưa Mẹ bảo thầy bói nói con với ổng hạp tuổi.
- Thì thầy bói nói con với chồng hạp tuổi, chứ có bói hai con hạp
mua sắm đâu nè!!!
*CĂN TU
- Thưa Thầy! xin Thầy xem dùm con có căn tu không vậy?
- Ừ thì ai cũng vậy muốn tu, tức là có căn tu rồi đó.
- Nhưng mà con làm Bác sĩ phải mỗ xẻ thú trong phòng thí nghiệm.
Mỗi ngày đều phải sát sanh thì làm sao đây?
- Ôi…!!! Thật là tội lỗi…!!! tội lỗi, như vậy là không có căn tu, cũng chưa biết tu.
- Vậy con phải làm sao đây?
- Bỏ job đó liền lập tức.
- Thôi rồi! thế thì cả nhà vợ con chắc chết đói rồi, Thầy ơi cứu con…!!!
*LÀM ĐẸP
- Chị hai có thấy em của chị đẹp hơn những người bạn của em không vậy?
- Đẹp! nhưng đẹp hay không quan trọng là đẹp nết ở bên trong.
- Ở bên trong đâu có ai thấy được, trong khi đẹp ở ngoài thì so sánh là thấy liền!
XUÂN BÌNH YÊN
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Trong thời tiết của năm mới, trên mảnh đất an bình
hiền hòa Gia Nã Đại, khi nhắc đến Tết Việt nơi xứ người thì không khí lạnh cũng
trở thành niềm vui và ấm áp. Hạnh phúc đến với những điều mới mẻ, cuộc sống
tiến bộ lạc quan, tâm hồn người con Phật thì luôn cầu mong thế giới thanh bình
thịnh vượng. Một ngày đi qua, một tháng cũ hết, một năm lặng lẽ trôi, một đời
người, một con đường, một chân lý sống, suy tư cho cùng tận sự vô thường biến
đổi ngay trước mắt. Đời người không là mãi mãi sống trăm năm, không một ai
thoát khỏi luật vô thường. Cần thấy rõ được niềm hạnh phúc những vinh quang
hiện tại; hoặc thăng trầm, vinh nhục ở trong quá khứ; hay sự bất hạnh thất bại
bất như ý sẽ xảy ra ở tương lai. Tất cả đều là vô thường. Chỉ có giác ngộ tìm cho được sự thường không bao giờ thay đổi, khi đó
con người không còn sợ bị vô thường chi phối nữa.
Phật pháp không là của riêng ai, những điều chân
chánh đã có sẵn trong chốn dân gian. Nhân quả và vô thường là sự thật trong vũ
trụ. Khi con người còn tham lam danh vọng, sân hận chất chứa, si mê điều lợi,
bất chấp thủ đoạn, hại người lợi mình, thì không có trí tuệ. Khi không hiểu
được giá trị của Phật Pháp, không áp dụng nhân cách đáng trân trọng và tâm từ
bi trong cuộc sống, thì chiến tranh xảy ra, hơn thua tranh danh đoạt lợi, đau
khổ ly tán. Sự vô cảm và tàn bạo khiến con người càng lúc càng xa rời đạo
đức.
Nhân quả và vô thường làm cho chúng sanh rơi vào
vòng xoáy của luân hồi sanh tử, nhiều kiếp chịu đau khổ trong lục đạo: thiên,
nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Phật là bậc Thầy khai ngộ và chỉ
dạy cho chúng sanh thức tỉnh, dùng trí tuệ để nhận biết rõ ràng ai ai cũng có
Phật tánh bình đẳng và sáng suốt. Ai cũng có thể qui y Phật để trở về con đường
chân chánh và thanh tịnh. Trong Kinh Nhật Tụng Chư Tổ dạy rằng:
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện qui y
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Bản tánh rỗng lặng như nhau có
nguồn gốc từ quá khứ sâu xa, là chốn an bình tịch lạc, không có tranh chấp,
không có đau khổ. Phật là từ chúng sanh giác ngộ mà chứng quả. Phật cũng từ
phiền não mà chứng bồ đề.
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Sự suy tư của tâm thanh tịnh
không thể nghĩ bàn. Đạo là con đường mà hành giả chân chánh không bị danh lợi
cám dỗ, trạng thái tâm lặng lẽ không dính mắc, không chống trái với nhau. Nhân
cách của các vị thiện hữu tri thức cảm thông nhau, cho dù thuận hạnh nghịch
hạnh vẫn có thể hoằng pháp ở mọi hoàn cảnh, mà không đánh mất giá trị của đạo
hạnh. Đây là việc bất khả tư nghì của những bậc bồ tát có đủ từ bi và trí tuệ.
Lưới đế châu ví đạo tràng. Ngài Thần Tú ví tâm như gương lấm
bụi phải lau chùi hằng ngày, Ngài Huệ Năng ví tâm xưa nay không phải là một
vật, nên chẳng có gì phải lau chùi. Trong đời sống tùy quan niệm và hoàn cảnh,
người tu đừng chấp, đừng phân biệt giai cấp, hay đòi hỏi nhiều, thì ở đâu cũng
là đạo tràng. Lời dạy của chư Phật chư tổ cũng là phương tiện để tu học, pháp
môn nào cũng là kiến thức từ bên ngoài cần cho việc tu học mà thôi, đừng rơi
vào sự sai lầm của bản ngã, gây chướng ngại cho con đường giải thoát. Quan trọng
nhất là chánh kiến và chánh tín, tránh khỏi mê lầm, tìm được chân lý thật sự
đưa con người đến hạnh phúc, đó mới là cứu cánh và vô cùng trân quí hơn cả trân
châu bảo ngọc.
Mười phương chư Phật hào quang sáng ngời. Phước đức giúp người tu dễ vượt
qua khó khăn của ma chướng, như người khách bộ hành phải đi qua những đoạn
đường gian nan đầy vực sâu và thử thách. Khi có được những gì mong cầu, người
tu đi đến đâu làm việc gì cũng chỉ nghĩ lợi ích chúng sanh. Tánh giác có sẳn
nhưng vì nghiệp thiện ác ở sáu cõi làm cho chúng ta quên đường về. Từ vô thủy
chúng sanh đã là Phật, tự tánh vốn thanh tịnh luôn luôn hiện hữu. Khi ánh sáng
trí tuệ như ngọn đèn được thắp sáng, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp tự tan
biến mất. Hiểu được và hành được Phật Pháp bằng thân giáo và khẩu giáo là công
đức phước đức, lợi lạc cho mình và cho những người hữu duyên, thì hào quang
cũng không khác gì chư Phật mười phương.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện. Công phu “phản quan tự kỷ” chánh
niệm tỉnh giác, chiếu kiến từng hành động thuộc về thân khẩu ý. Đức Phật ví tâm
con người như mặt biển và ngọn sóng, khi sóng yên biển lặng thì thấy được sóng
và nước là một. Sóng lặng là định, là tuệ, là an bình. Sóng dậy là loạn, là mê,
là phiền não. Mặt biển lúc nổi sóng và mặt biển lúc thanh bình, tuy trạng thái
hoàn toàn khác nhau, nhưng không phải là hai biển. Cũng vậy, tâm con người
lúc bình tĩnh thản nhiên và lúc nổi cơn tức giận, không hai, nhưng cũng không
phải một. Tuy hai mà một, tuy một mà hai, chính là nghĩa đó vậy. Trước
tình thương bao la bình đẳng của Phật tâm, con người rồi sẽ nhận ra thật tướng
của cái ta, tốt xấu như thế nào. Chư Tổ các ngài giúp môn đệ nắm vững đường lối
tu hành và định hướng cho biết Phật tại tâm, tâm là Phật. Phật và chúng sanh
chỉ là ngôn từ để xử dụng, chứng đắc, hay ngộ nghĩa lý là do ở nơi mỗi người.
Cuối đầu xin thệ nguyện qui y. Khi người tu đạt được trạng thái
vắng lặng thấy được lẽ thật, bừng tỉnh, giác ngộ sinh tử, mong muốn quay về với
chốn an bình tịnh lạc đó mới thật sự là “qui
y”. Nhưng đâu là ranh giới của đau khổ và hạnh phúc, si mê và giác ngộ.
Tu nghĩa là “dừng”, không mang
mặc cảm phước mỏng nghiệp dày, không tự mãn với những gì có được, mới thấy đời
tu có ý nghĩa và an lạc. Khi liễu ngộ là đã nhận biết được đường hướng và mục
đích cuối cùng một cách rõ ràng, hãy vững niềm tin mà tiến bước bằng nghị lực
và ý chí không thối chuyển.
Các Thiền sư có câu: “Thủy lưu qui đại hải. Nguyệt
lạc bất ly thiên”. Nước dù chảy đi đâu, cuối cùng cũng về biển cả. Trăng lặn ở
đâu, cũng không ra khỏi bầu trời. Xuân đi xuân đến, mãi mãi vẫn là xuân. Mùa
xuân bình yên với người tu đạt từ bi và trí tuệ. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
XIN QUẺ ĐẦU NĂM
-
Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị
xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?
-
Như vậy là xui tận mạng rồi chứ còn gì nữa. Con phải đi chùa lạy Phật
nhiều, cúng chùa nhiều, mới hóa giải tai ách này được. Nhớ đó.
- Trời ơi! Chết con rồi, trời!
* * *
-
Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị
xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?
-
Chào đạo hữu. Đạo hữu hãy an tâm, không có gì xui xẻo hết đâu. Mấy cái
quẻ xăm này để lắc cho vui, để những người còn tin chuyện linh thiêng
huyền bí, thích cầu khẩn van xin về chùa dịp đầu năm. Chuyện hên hay xui của con người tùy thuộc chuyện làm thiện hay làm ác trong cuộc sống, chứ không phải tùy thuộc nơi quẻ xăm này.
Đó là luật nhân quả.
Người làm việc thiện thì gặp phước báo, gặp may, gặp hên.
Người làm việc bất thiện thì gặp quả báo, gặp xui, gặp nạn tai, trắc trở.
- Nếu muốn tránh xui xẻo, tai qua nạn khỏi con phải làm sao?
-
Con người nhiều đời nhiều kiếp vừa làm việc thiện, vừa tạo nghiệp chẳng
lành. Cho nên, có khi gặp may, có khi chẳng may. Để tránh xui xẻo xảy
đến, con người phải biết sám hối và nguyện không làm chuyện sai trái,
đem đau khổ cho người, qua thân (đánh người), miệng (chửi mắng, nói xấu), và ý nghĩ (nghĩ xấu, nghi ngờ).
Thêm nữa, hãy tạo phước báu bằng cách cứu người, giúp đời, tu nhân tích đức, bù lại việc xấu ác đã tạo nghiệp trước kia.
- Nhưng mà con vẫn lo sợ chuyện xui xẻo xảy đến. Vậy con phải làm sao?
- Đạo hữu thử xin quẻ khác xem sao, chắc là quẻ khác?
- Ờ hén, cám ơn Ni sư chỉ dạy rõ ràng. Con sẽ đi chùa thường xuyên để học đạo lý với Ni sư, Ni sư cho phép con nha.
- Mô Phật. Như vậy gọi là đi chùa đúng chánh pháp. Quí lắm. []