BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN PHẬT ĐẢN
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Ban ngày trời chiếu sáng
Ban đêm trăng chiếu sáng
Như hào quang Đức Phật
Chói sáng cả ngày đêm.
**
Đèn hoa sen chiếu sáng
Người trí tuệ sâu xa
Như trăng khỏi mây mù
Soi sáng khắp nhân gian.
Hằng
năm, mùa Phật Đản đèn hoa sen được thắp sáng khắp nơi trên đường phố toàn thế
giới. Trong đó gồm có Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Nepal, Trung Quốc,
Thái Lan cùng các quốc gia đông Nam Á khác. Lễ hội với những lồng đèn rực rỡ,
ngoài việc thể hiện nét văn hóa truyền thống đặc sắc của Phật giáo và niềm hân
hoan hạnh phúc mừng Đấng giác ngộ ra đời. Những người con Phật còn phải tự nhắc
nhở tri ân và luôn củng cố niềm tin sáng suốt đầy trí tuệ vào giáo Pháp từ bi
bình đẳng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó chính là ý nghĩa toàn mỹ trong dịp kỷ
niệm ngày đản sanh của Đức Từ Phụ, vị Phật giác ngộ và giải thoát chúng sanh ra
khỏi biển khổ sông mê.
BẰNG
CON TIM VÀ MỘT TẤM LÒNG
Sống
trong nhân gian xuất gia hay tại gia và còn có rất nhiều hình tướng, giai cấp,
trình độ, tùy hoàn cảnh, tùy phước duyên tu học, tùy căn cơ mà xiển dương chánh
pháp. Bằng con tim chân thành và một tấm lòng bao dung con người có thể giải
quyết được vấn đề nan giải trong gia đình, bức xúc trong tình cảm, nỗi tuyệt vọng
áp bức, bất công, xung đột, tranh chấp trong cuộc sống. Thiền môn cũng là nơi
người Phật tử trở về nương tựa, tịnh tu, gởi gấm niềm tin hy vọng và tìm được
những phương pháp xoa dịu nổi đau tâm linh, giải quyết đau khổ mà họ đang gánh
chịu.
Trong
một mùa Phật đản, Chư Tăng Ni đưa Phật tử đi thăm một cảnh Đức Phật thành đạo
trong khu vườn xung quanh chùa. Cảnh được diễn tả là một tượng Phật Thích Ca Mâu
Ni ngồi ở gốc cây bồ đề đang tọa thiền, cùng trong cảnh có ba tượng người nữ rất
đẹp đang múa. Hai người Phật tử nhìn tượng ba cô gái, người thứ nhất buộc miệng
khen:
-
Ồ ba cô tiên đẹp thật !
-
Tiên gì mà đẹp chứ? Không biết đừng có nói bậy!
Là ba con ma nữ phá Phật đó! Đọc thêm giáo lý đi bà ơi!
-
Đẹp thì tôi nói đẹp có sao đâu? Bà giỏi dữ
hén?
Qua lời đối đáp của câu chuyện trên chúng ta
thử suy ngẫm. Trong khi Đức Phật chứng Niết Bàn, quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác từ lâu xa rồi, tại sao vẫn còn quá nhiều chúng sanh chìm đắm trong luân hồi,
vậy Ngài đã dạy những gì? Chúng ta thực hành được nhiều hay ít trong tu tập? Hay
chỉ là dùng Phật Pháp để hơn thua, được mất, danh và lợi?
Đúng sai
không chấp thủ
Thương
ghét khéo lìa xa
Thấu suốt
từ vô ngại
Thân nầy
là thân chót
Bậc đại
trí đại nhân
Không nhiễm
lụy pháp nào
Ái diệt tự
giải thoát
Nhờ vậy chứng
Niết bàn.
(Kinh Pháp Cú)
Thuốc
không có hay dở mà chữa được bịnh là thuốc tốt. Pháp không có cao hay thấp mà
Pháp nào đem lại an lạc hạnh phúc và chữa được tâm bịnh là Chánh pháp. Không có
gì là khó để tìm được ánh sáng Phật pháp, nếu thấy rằng đời người rất ngắn, tự mình
cố gắng xua tan bóng đêm trong tận cùng thâm tâm. Bóng đêm càng lớn, con người
càng nhỏ bé và một ngày nào đó sẽ bị nhấn chìm vào địa ngục đau khổ.
THÚC LIỄM
THÂN TÂM
- Khi đang tu tập,
con người còn sống trong cảnh giới tương đối nên tâm còn động. Từ lời nói, suy
nghĩ, hành động chỉ theo bản tánh vui buồn, hờn giận, khi thương khi ghét. Như
vậy, rõ ràng là tâm động. Tâm động thì còn trong cảnh giới luân hồi. Vẫn biết
giữa đời thường có tốt có xấu, tâm thường bị lòng đố kỵ chi phối, thấy cái xấu
của người thì dễ, ít thấy được cái tốt, như lòng bàn chân úp xuống mặt đất khó
nhìn thấy được. Khi hành động, lời nói có sự suy nghĩ và trí hiểu biết, chứ
không vì bị ép buộc hay thành kiến, nguy hiễm nhất là tâm sân hận đưa tới sự
hối hận muộn màng.
Tùy trình độ giác ngộ tu tập chuyển nghiệp, do đó
nhiệm vụ nặng nề của người Thầy là dẫn dắt chúng Phật tử, thức tỉnh họ trong
khi còn sống là còn cơ hội, khi bỏ thân xác này thì đã trể rồi. Mọi người đều
phải đối diện với nghiệp tốt xấu đã tạo trong suốt cuộc đời, mà thọ lãnh quả
báo (gieo giống nào thì gặt quả đó).
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, người tu vào được
cảnh giới tự tại sáng suốt, cũng có nghĩa là lúc bấy giờ tâm giống như Chư
Phật, luôn luôn sống trong chánh định chánh giác, lời nói suy nghĩ hành động
đều thanh tịnh. Không có tham vọng hay mong cầu ích kỷ riêng tư, không còn
phiền não, dứt trừ được tam độc tham lam, sân hận, si mê. Từ giác ngộ đi đến
mục tiêu giải thoát sanh tử đau khổ là cứu cánh chân thật của đạo từ bi trí
tuệ.
- Khi giác ngộ, Đức
Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây
bồ đề, trên thế gian này và theo lịch sử ghi chép
lúc đó Ngài 35 tuổi. Vị sa môn Cồ Đàm sau khi chứng đạo thấy được tam thiên đại
thiên vô số thế giới trong sáu cõi (thiên, nhân, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh) và hiểu rõ vô thường, nhân quả, sanh lão bịnh tử chi phối sáu cõi đau khổ
trong sanh tử luân hồi. Danh từ Niết bàn là trạng thái của tâm Phật ở hiện tại
lúc còn sống, không phải sau khi chết mới thấy được. Tự tại hoàn toàn - Tâm tỉnh lặng - Chính là niết bàn.
Mong muốn được trạng thái tâm sáng suốt trí tuệ như Chư Phật,
ngoài việc làm phước để trưởng dưỡng lòng từ bi, chúng ta còn phải cố gắng học hiểu
giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được Niết
bàn an lạc giải thoát và được hạnh phúc ngay hiện đời.
Nhất
thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.
(Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh).
Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh
phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn,
nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.
Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được các bậc truyền nhân chân tu thật học,
chân chính rao giảng khắp nơi trên thế giới. Tấm lòng vị tha vô ngã, vô chấp,
vô phân biệt của những bậc xuất gia trưởng tử Như Lai, là cố gắng đem chánh
pháp thức tỉnh chúng sanh giác ngộ, mong họ sớm xa rời tà kiến, mê tín, xem nhẹ
danh lợi và buông bỏ được lòng tham lam ích kỷ từ nhiều đời nhiều kiếp.
"Trên
đời này, không có sự ghen tị tranh đấu chính là từ bi, không phân biệt cao
thấp, hay dở chính là trí khôn, không nghe thấy đàm tiếu chính là sự thanh
tịnh, không nhìn thấy hơn thua là tự tại, không tham vọng chính là bố thí, từ
bỏ ác là hành thiện, sửa đổi chính là sám hối, nhún nhường là lễ Phật, tha thứ
là sự giải thoát".
BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN
Tâm là vô thường, thay đổi khi tối khi sáng. Đạo Phật
là đạo từ bi và trí tuệ. Người tu không có ích kỷ, không cố chấp, không cầu
danh lợi, sống trong bao dung và tha thứ đó là hương thơm của hoa sen biểu tượng
của từ bi. Ngọn đèn trí tuệ thắp sáng trong hoa sen là người tu biết thiện ác,
chánh tà, đúng sai, nhưng không có sự phân biệt. Tâm trong sáng như gương, khéo
léo hành sử, tán dương thiện xa lìa ác chứ không khinh chê, cũng không phân
biệt đối xử yêu hận trói buộc.
Trí tuệ và lòng từ bi giúp cho hành giả trên đường
tu giữ được tâm chân chánh, thanh tịnh và sáng suốt. Tự giác ngộ rồi thì ly
tham, ly sân và si mê, chấm dứt được giải thoát. Sự hạnh phúc an lạc không do
ai ban tặng hay do cầu xin mà được, mà do ở bản thân của mỗi người tự tu, tự
chuyển đổi, luôn luôn chánh niệm thanh lọc tâm thật trong sạch và chánh định (thanh
tịnh). Biểu tượng hoa sen là hương thơm đức hạnh người tu có niềm tin đúng
chánh pháp, trên đường hành đạo có lòng từ bi cao thượng và tuệ giác sáng suốt
như Chư Phật. Ngọn đèn chiếu sáng bên trong tượng trưng người tu thoát ra khỏi
bóng đen tâm tối của vô minh trong sanh tử và đạt được giác ngộ và giải thoát.
Câu
chuyện giáo lý cần suy ngẫm như sau:
Có một
anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây
đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban
ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn
khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận
cây đèn và ra về, trên đường về, anh đụng phải một người đi đường. Anh mù bèn
la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây
đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng
ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát
khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi
không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính
chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người tu cần phải
có.
ĐÈN HOA SEN biểu tượng niềm tin
Hạnh
phúc thay, Đức Phật Đản Sanh
Hạnh
phúc thay, Chánh Pháp trường tồn
Hạnh
phúc thay, Tứ chúng đồng tu
Hạnh
phúc thay, thiên hạ thái bình.
Kính chúc
quí vị an lạc và hạnh phúc trong giới pháp của Chư Phật. Mùa Phật Đản hãy cùng nhau sám hối, cùng nhau
thứ tha, giải bớt nỗi oan khiên nghiệp báo, xoa dịu thống khổ của kiếp người,
cho nhau niềm yêu thương, xóa tan thù hận, có được sự cảm thông và hiểu biết, sớm
thoát ly biển sanh tử luân hồi. Nguyện cùng tất cả chúng sanh trong pháp giới đều
trọn thành Phật đạo. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật
TKN Thích Nữ Chân Liễu
XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU (Giọng đọc SƯƠNG ANH)
BƯỚC SEN THỨ BẢY – VÀO QUẢ
VỊ PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Mùa Phật Đản đối với
những người con Phật là mùa hoa sen nở, thật khó có thể diễn tả hết được sự hỷ lạc
bình an một cách vi diệu trong mùa lễ hội nầy. Hạnh phúc thay, lành thay bậc
trí tuệ giác ngộ ra đời. Cách nay 2635 năm, tại vườn Lâm tỳ ni, thành Ca tỳ la
vệ, Thái Tử Tất Đạt Đa chào đời, giống như bao hài
nhi khác,
là một con người sống trong thế giới ta bà, thật sự có cha mẹ, có gia đình và
thân bằng quyến thuộc.
Theo truyền thuyết,
ngay khi đản sanh Thái Tử Tất Đạt Đa đi 7 bước, có 7 đóa sen đỡ chân. Truyền
thuyết nầy mang nhiều ý nghĩa thâm sâu và nếu hiểu theo tinh thần học Phật, có rất
nhiều lợi ích cho người tu. Một vị Phật ra đời, hay một con người ở thế gian đều
có thể tu giải thoát, đạt đến địa vị Tôn Quí Tối Thượng. Sự đản sanh của một vị
Bồ Tát hy sinh cả cuộc đời vì lòng đại từ đại bi vô tận và đã hành Bồ Tát đạo
nhiều đời nhiều kiếp, kiếp cuối (nhất sanh bổ xứ) trải qua nhiều khổ hạnh và
thiền định để mong tầm đạo giải thoát cứu khổ chúng sinh.
SÁU BƯỚC HOA SEN - HÀNH BỒ TÁT ĐẠO
Thái Tử Tất Đạt Đa
sau khi cắt đứt mọi trần duyên ràng buộc, xuất gia tu hành chứng Túc Mạng Minh, thấy biết nhiều đời trước
Ngài đã từng sanh ở đâu trong lục đạo, làm gì, tất cả những chuyện quá khứ, được
chính Đức Phật thuyết và các vị tỳ kheo kết tập lại trong Kinh Bổn Sanh Bổn Sự.
Như vậy, đã nhiều
kiếp trước khi thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật cũng đã trải qua sáu nẻo
đường sanh tử luân hồi. Hình ảnh bánh xe luân hồi diễn tả sự trôi lăn tử sinh của
chúng sanh trong lục đạo, tức sáu cảnh giới: trời, người, atula, địa ngục, ngạ
quỉ và súc sanh.
Đạo Phật không
tin vào Thượng Đế sáng tạo toàn năng, toàn quyền thưởng phạt con người, tùy tiện
theo lòng thương ghét. Niềm tin vào luật nhân quả bình đẳng, người tạo nghiệp
thiện hay nghiệp ác từ thân, khẩu, ý, nhận kết quả
hay lãnh hậu quả, dù là người thân yêu nhất muốn cứu hay thay thế cũng
không được. Dụ như hòn đá nặng tất phải chìm trong nước, giọt dầu nhẹ tất nhiên nổi trên mặt nước, đó là
nhân quả không sai. Niềm tin sâu luật nhân quả thiện ác ảnh hưởng vào sự tái
sanh 6 cõi luân hồi (thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ
quỉ và súc sanh).
Cõi Thiên:
Sanh về cõi trời, nơi phúc lạc thế gian, hưởng phước đã tạo tác.
Cõi Nhơn: Sanh
vào nhân gian làm người, giàu hay nghèo, có thiện có ác.
Cõi TuLa: Sanh
nhà quyền quí, phước báo gia đình, cùng chung cộng nghiệp.
Cõi Địa Ngục:
Sanh vào nơi đau khổ, vì nghiệp ác sâu dầy, thiện nghiệp ít.
Cõi Ngạ Quỉ:
Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, tham lam ích kỷ.
Cõi Súc Sanh:
Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát, si mê quá nặng.
Tuy sống trong lục
đạo luân hồi, nhưng các tiền kiếp Đức Phật là vị Bồ Tát hằng sống với Bát Chánh Đạo (chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định)
và thường hành Lục Độ Ba La Mật (bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ).
Sự nổ lực tu tập Bồ
Tát Hạnh, thực hành Bồ Tát Đạo của riêng từng cá nhân con người trong thế gian,
có thể vượt thoát khỏi lục đạo sanh tử hay không? Bước hoa sen thứ 7 nói lên rằng
điều đó có thể, điều đó không do ân huệ trời ban cho, hay thần linh thượng đế
dành phần riêng cho ai cả, mà chính do đại từ, đại bi, đại lực, đại tinh tấn của
người tự tu, tự chứng đạt được mà thôi.
BƯỚC SEN THỨ BẢY - QUẢ VỊ PHẬT
Sáu bước sen tinh
khiết được tích tụ từ Bồ Tát Hạnh trong lục đạo. Với tâm từ bi thanh tịnh sáng
suốt nhiều đời nhiều kiếp tu hành, Bồ Tát từng xả bỏ thân mạng cứu khổ ban vui,
chan rải ánh sáng từ bi và trí tuệ cho muôn loài. Ý nghĩa của 6 bước hoa sen đầu
tiên thể hiện sự đản sanh trong lục đạo luân hồi. Thái Tử Tất Đạt Đa dừng lại ở
bước sen thứ 7, đó chính là kiếp cuối cùng, đạt quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay
trong cõi nhân gian này.
Đức Phật khi đản
sanh bước đi được đến đóa sen thứ bảy, chứng thực một sự thật sâu xa, thật khó
thấy khó hiểu, khó nghĩ bàn. Đó là Niết Bàn tịch tịnh của chính con người tu từ
bi và trí tuệ sẽ tự cảm nhận được một cách rõ ràng, khi chứng đắc quả vị Phật.
Đức Phật dạy:
Ai còn tham luyến tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp
đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi, thời có dao động. Ai không
tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được
khinh an thời không còn chấp . Ai không còn chấp, thời không có đến và đi. Ai
không có đến và đi, thời không có sanh diệt. Ai không còn sanh diệt, thời không
có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau. (Niết
bàn - Tương Ưng Bộ Kinh).
Đệ tử Phật môn, muốn vượt thoát ra khỏi sự
khổ nạn trong 6 cõi luân hồi sanh tử và bước vào được hoa sen thứ 7, đạt đến Niết
Bàn an tịnh không còn đau khổ nữa, cần phải tu học và thực hành theo lời Đức Phật
dạy.
Đức Phật dạy con người phải chiến đấu mạnh
mẽ với tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê và phải dùng gươm trí tuệ cắt đứt những
đam mê dục vọng danh lợi mà người thế gian cho là quí giá cần chiếm đoạt và hưởng
thụ. Theo "Lý duyên khởi" thì:
- Cái nầy có, thì cái kia có (có ham muốn
ích kỷ, thì có đau khổ tranh chấp)
- Cái nầy sanh, thì cái kia sanh (có trói
buộc tham ái, thì có thù oán sân hận)
- Cái nầy không, thì cái kia cũng không (không
có tham dục, không có ưu bi khổ não)
- Cái nầy diệt, thì cái kia cũng diệt (không
có ta, không có vô minh sanh tử).
Vô minh diệt, thì có Niết Bàn. Chấp ngã, ham
muốn, dục vọng càng to, càng xa Niết Bàn. Đức Phật là bậc đại từ, đại bi, đại
trí, đại lực, xa rời tất cả ác pháp, sáng suốt phá tan vô minh phiền não, vượt
qua đối đãi (nhị nguyên), đạt được Niết Bàn tịch tịnh. Người phàm trần thường chấp
đúng sai, hơn thua, thương ghét, tốt xấu, khen chê, thật giả, nên bị chi phối,
trói buộc, mê mờ, đắm sâu trong vô minh, sinh tử mãi trong vòng luân hồi, không
thoát ra được.
Cũng chính vì cái bản
ngã ràng buộc mà chúng sanh chìm nổi trong biễn khổ luân hồi. Đức Phật dạy pháp
quán vô ngã, nhìn cho thấu đáo tứ đại đều do duyên hợp thành, chưa diệt được
cái ta tự tôn tự đại, thì còn đau khổ, còn sanh tử. Chuyển mê khai ngộ, ly khổ
đắc lạc, bước ra khỏi lục đạo là giải thoát sanh tử.
Đức Phật không từ một
cõi siêu nhiên thần bí nào. Bản chất một con người, nên Ngài luôn cảm nhận được
một cách trọn vẹn nổi thống khổ đời người, từ lúc sanh ra, già, bịnh và chết. Khi
Đức Phật chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, Ngài lưu lại thế gian thuyết pháp và giáo
hóa cho tất cả chúng sanh bằng tâm từ bi bình đẳng tuyệt đối, chỉ rõ con đường
tu để đạt đến Niết Bàn tịnh lạc. Ngài tuyên bố: Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.
Phiền não
biết, phiền não đoạn.
Tham sân
biết, tham sân dứt.
Vui buồn
biết, buồn vui dừng.
Thiện ác
biết, thiện ác bặt.
Từng sát na
biết, còn gì dính mắc.
Tự tại vĩnh
hằng.
Trời xanh mây
trắng bay.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU
NI PHẬT
TKN
Thích Nữ Chân Liễu
Ý Nghĩa Chuyện
Bà Lão Cúng Đèn Thời Đức Phật
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên.
Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri.
Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện.
Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.
Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên.
Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.
Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri.
Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện.
Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.
Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.
Suy Ngẫm:
Có hai loại ngọn đèn:
1. Ngọn đèn trí tuệ: tượng trưng
"Phật tâm Phật tánh" sáng suốt của mỗi con người ai cũng có sẵn, bình
đẳng, không có biệt trừ. Chỉ có phàm phu mới có tâm phân biệt giai cấp,
sang hèn, hơn thua, so đo, nên sanh phiền não. Ý nghĩa cúng đèn với bản tâm
thanh tịnh, mồi ánh sáng trí tuệ từ ngọn đuốc Phật Pháp. Ngoài ra, không cầu
xin gì riêng cho cái tôi (bản ngã), không đòi hỏi Chư Phật phải ban cho mình gì
cả và cũng không tính toán hơn thua danh lợi. Đó mới là tấm lòng cúng dường
Phật Pháp trong sáng thanh tịnh, vì người không vì riêng cá nhân mình, gia đình
mình (gọi là cúng dường ba la mật), cho nên tương ưng với tâm của Chư Phật và
Chư Bồ tát. Ngọn đèn công đức, đầy đủ từ bi trí tuệ đó cháy mãi với thời gian.
2. Ngọn đèn thế tục: tượng trưng sự giàu
có phô trương, mặc dù nhiều dầu, sang trọng, mắc tiền, nhưng có lúc cũng phải
cạn và lịm tắt dần. Ví như của cải sang giàu, phước báu, nhưng khi hưởng hết,
hoặc cuối cuộc đời rồi cũng phải buông xuôi, mất đi tất cả theo luật vô thường.
Con người thế gian khi cúng đèn với tâm cầu xin hưởng phước, đòi hỏi nhiều việc
từ nơi Chư Phật, Chư Bồ tát, cầu mong được giàu sang an nhàn (cúng dường cầu
danh lợi) cho riêng bản thân, thì chỉ được phước hữu lậu trong thời gian ngắn
ngủi. Đèn thế tục còn lắm phiền não, tham lam và ích kỷ thì không thể cháy sáng
lâu dài được. Đó là những phước báo rất ít ỏi khiến cho con người trôi lăn mãi
trong luân hồi lục đạo.
Người tu học đạo phải
trải lòng cao thượng rộng lớn, Từ Bi Hỷ Xả, trong khi cúng dường hoa, trái,
nhang, đèn, nên phát tâm cầu giác ngộ Chánh Pháp hiện đời cho mình và cho tất
cả chúng sanh, đều thành Phật đạo. Tu tâm sửa tánh, không khinh người, giúp đời
hành thiện, tha thứ bao dung. Đó là hạnh nguyện đúng chánh pháp của người phát
tâm tu theo Phật, hành Bồ Tát đạo. [ ]
PHẢI CÓ TRÍ TUỆ MỚI MONG VÃNG SANH
BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
Ý NGHĨA LỄ PHẬT ĐẢN-Ý NGHĨA LỄ TẮM PHẬT
NGUỒN GỐC CỦA CHIẾC ÁO CÀ SA
CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH