Sunday, September 22, 2013

***NƯỚC CÓ DẬY SÓNG KHÔNG ?



NƯỚC CÓ DẬY SÓNG KHÔNG ?
HT. Thích Thanh Từ
Thiền Viện Trúc Lâm Thường Chiếu

Mùa đông năm 1991, tôi ra Vũng Tàu dưỡng bệnh, ở nhờ thất Thích Ca của Quan Âm Phật Ðài. Trước cửa thất nhìn xuống mặt biển có cây Bồ đề sum sê che rợp, râm mát cả thất. Tôi thường ra đứng dưới tàng cây nhìn xuống biển. Một hôm, tôi đứng nhìn ra biển thấy biển cả thênh thang sóng bủa trắng xóa, lúc đó có chú thị giả đứng bên cạnh, nhìn sang chú tôi hỏi:

 "Ðố chú nước có dậy sóng không?" Chú ngần ngại thưa: "Có." Tôi hỏi tiếp: "Nước có chảy không?" Chú thưa: "Có." Tôi chậm rãi bảo chú: "Nếu nước dậy sóng và chảy thì khi không gió, hoặc nước chứa trong hồ sao không tự dậy sóng và chảy?" Chú thị giả lặng câm. Nhân đây tôi giải thích rộng cho chú hiểu:
Nước không dậy sóng và không chảy.-Nếu nước hay dậy sóng và chảy thì bất cứ lúc nào, ở đâu nước cũng dậy sóng và chảy, vì bản chất nó là như thế. Như con người chúng ta là động thì bất cứ lúc nào, ở đâu đều là động, dù cho khi ngủ yên mũi vẫn thở, tim vẫn đập, máu vẫn tuần hoàn, nếu dừng động là con người chết. Song nước không phải thế, bản chất nước là yên lặng, khi bị gió đùa hoặc bị một tác động nào khác, như tàu chạy... nước mới dậy sóng. Chúng ta chứa nước trong hồ, trong vò, khạp... thì nước yên lặng, mặc dù nước vừa múc trên lượn sóng đang vỗ ầm ầm, mà chứa vào chỗ an tịnh nước từ từ lặng yên. Nước cũng không chảy, nếu nước bản chất hay chảy thì lúc nào và ở đâu nước cũng phải chảy. 

Thực tế chúng ta thấy không phải thế, nước có khi chảy có khi dừng, ở chỗ này chảy, ở chỗ khác không chảy. Chẳng qua nước là thể lỏng, ở chỗ cao thì nước chảy dồn xuống chỗ thấp, hoặc bị sức ép hay sức hút thì nước liền di chuyển, nếu ở chỗ bình, trong hoàn cảnh bình thường thì nước an nhiên bất động. Tôi có thể kết luận rằng:
"Nước dậy sóng và chảy là do duyên." Cái gì làm duyên khiến nước dậy sóng? -Gió là duyên chủ yếu khiến nước dậy sóng. Bởi duyên gió thổi mặt nước dậy sóng, gió càng mạnh thì sóng càng to. Khi sóng đang bủa ầm ầm thì có trăm ngàn lượn khác nhau, luợn A không phải lượn B... Bấy giờ có danh từ Sóng và Nước dường như hai, mà thực thể sóng với nước không phải hai. Sóng là tướng động của nước, khi tướng động dừng, chỉ còn lại một thể nước an tịnh. Ðứng về mặt sóng thì có trăm ngàn thứ, đứng về mặt nước thì không có hai.

Chính sóng tức là nước, rời nước không có sóng. Người thông minh muốn cần nước cứ trên sóng mà lấy, cần thấy mặt biển phẳng lặng chỉ chờ khi sóng dừng thì thấy. Nếu bỏ sóng đi tìm nước là người ngu, chạy tìm mặt biển phẳng lặng ngoài chỗ sóng dậy ầm ầm là kẻ dại. Bám trên từng lượn sóng cho là mặt biển là kẻ đại ngu. Phải biết vô số lượn sóng rượt đuổi nhau la hét ì ầm trên mặt biển là tướng sanh diệt, chính mặt biển bát ngát thênh thang này mới là thể bất diệt bất sanh.
Này chú! Nơi tôi và chú sẵn có tâm thể thênh thang an tịnh dụ như mặt biển, vọng tưởng dấy khởi dụ như dậy sóng. Một lượn sóng nổi lên trên mặt biển, muôn ngàn lượn sóng tiếp nối dấy lên; cũng thế một vọng tưởng khởi dậy, muôn ngàn vọng tưởng tiếp nối khởi lên. Chúng ta nhìn trên mặt biển thấy những lượn sóng hùng hổ rượt đuổi ầm ầm trùng điệp, tưởng chừng như mặt biển chỉ có sóng với sóng. Nội tâm chúng ta khi vọng tưởng nổi lên ào ạt liên miên, tưởng như nội tâm mình chỉ là vọng tưởng. Do đó, hầu hết người đời đều chấp nhận vọng tưởng là tâm của mình. Ðến khi gió yên sóng lặng, chúng ta mới biết sóng chỉ là tướng sanh diệt tạm thời trên mặt biển, duy mặt biển mới là thể chân thật bất diệt bất sanh. 

Nội tâm được những giây phút an tịnh, chúng ta mới biết vọng tưởng là tướng sanh diệt hư dối trong tâm thể, chỉ có tâm thể mới là thể bất diệt bất sanh. Vọng tưởng có khi có, có khi không, tâm thể hằng hữu chưa lúc nào vắng mặt. Chấp nhận vọng tưởng là tâm mình, khác gì người chấp sóng là mặt biển. 

Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật kể: "Thuở xưa có anh chàng tên Diễn-nhã-đạt-đa sáng sớm lấy gương soi mặt, thấy đầu mặt hiện rõ ràng trong gương, khi úp gương lại không còn thấy đầu mặt đâu nữa, chàng ta phát điên ôm đầu chạy la to: "Tôi mất đầu! Tôi mất đầu!" Chú biết đức Phật kể câu chuyện này cốt nói điều gì không? -Dạ không. Ðây là đức Phật ám chỉ người nhận vọng tưởng làm tâm mình, như chàng Diễn-nhã nhận bóng trong gương làm đầu mặt mình thật, khi mất bóng, phát điên ôm đầu thật chạy kêu mình mất đầu. 

Mặt biển nguyên không hai, vừa có lượn sóng dấy động biến thành hai, vì đã có biển và sóng. Cho nên các Thiền sư qua một câu hỏi hoặc đáp thấy Thiền khách suy nghĩ liền đưa hai ngón tay. Song sóng không đơn thuần chỉ dấy một lượn, mà lượn này vừa khởi trăm ngàn lượn khác nối tiếp theo (nhất ba tài động vạn ba tùy). Vọng tưởng cũng vậy, một niệm khởi lên trăm ngàn vọng tưởng tiếp nối. Người tu không ngừa đón được niệm đầu thì không tài nào ngăn chận được những niệm sau. Sóng có khi dấy có khi lặng, mặt biển chưa bao giờ vắng mặt. 

Vọng tưởng lúc có lúc không ,tâm thể khi nào cũng hiện hữu. Sóng có thể tìm cách ngăn chận được, còn mặt biển chú thử có cách nào xua đuổi được nó hay không? Người tu có thể xả bỏ vọng tưởng, chớ không ai xa rời tâm thể được. Chú thử nghĩ, người ta xả bỏ vọng tưởng để tâm thể hiện bày trọn vẹn, hoặc xả bỏ tâm thể để vọng tưởng hiện lên đầy đủ, hai cách đó cách nào khó, cách nào dễ? Thưa: Bỏ vọng tưởng dễ, chớ tâm thể làm sao bỏ được._ Ðấy! Vậy mà có nhiều người tu nói "bỏ vọng tưởng khó". Bỏ cái sanh diệt, bảo tồn cái bất sanh bất diệt là vô sanh, là giải thoát. Trái lại, quên cái bất sanh bất diệt, chạy theo cái sanh diệt là sanh tử, là trầm luân. Biển yên tịnh là sự thái bình của người và vật, biển động sóng to là sự hiểm nguy cho người và vật. Tâm thể thanh tịnh là hạnh phúc, là Niết-bàn của con người; tâm thể dấy động là phiền não, là trần lao của nhân loại. Phật dạy rất nhiều pháp tu, chủ yếu không ngoài dạy chúng ta "đừng chạy theo vọng tưởng, phải nhận chân tâm thể hiện tiền".


Chạy theo vọng tưởng là mê, nhận chân tâm thể hiện tiền là giác. Mê là quên tâm thể nhận vọng tưởng, giác là bỏ vọng tưởng nhận tâm thể. Bởi con người đã mê, nên Phật dùng nhiều phương tiện chỉ dạy trừ dẹp vọng tưởng: Trực tiếp biết rõ vọng tưởng không theo; gián tiếp dùng niệm khác đè ép, như trì danh hiệu Phật, trì câu thần chú, khán thoại đầu... Khi nhiếp phục vọng tưởng được yên lặng, chỉ còn tâm thể thường hằng, gọi là kiến tánh, ngộ đạo, nhất tâm...
Gió dụ cho pháp trần.-Gió là tác nhân chủ yếu khiến mặt biển dậy sóng. Pháp trần là tác nhân chủ yếu khiến tâm thể dấy khởi vọng tưởng. Nhưng nói pháp trần chắc chú không biết là cái gì? _ Sách Phật thường nói: "Sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh sáu thức." 

Ðây tôi chỉ giải riêng sáu trần, chỗ chú trọng đặc biệt là pháp trần. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc là tất cả hình sắc do mắt thấy được, thanh là mọi thứ âm thanh do tai nghe, hương là các thứ mùi thơm hoặc hôi do mũi tiếp xúc, vị là các chất vị ngon dở mặn lạt... do lưỡi cảm nhận, xúc là xúc chạm có cảm giác thích thú hay bực bội nơi thân, pháp là bóng dáng của năm thứ trước còn rơi rớt trong tâm thức. Sáu thứ này đều có hình tướng hoặc thô hoặc tế, là tướng biến động vô thường nên gọi là trần. Riêng pháp trần không tự có, do năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) tiếp xúc với năm trần có cảm giác thích thú hay bực bội kích thích mạnh mà sanh ra. 

Như mắt thấy sắc đẹp có sức quyến rũ say mê hoặc thấy hình tướng kỳ quái ghê rợn thì ấn tượng sắc trần ấy in sâu trong tâm thức khiến chúng ta nhớ mãi. Tai nghe lời tán tụng ngợi khen mình, hoặc lời chỉ trích cay nghiệt ta thì ấn tượng thanh trần ghi sâu trong tâm thức khiến ta khó quên được. Mũi ngửi mùi thơm đặc biệt hoặc mùi hôi khó thở, thì ấn tượng hương trần in sâu trong tâm thức ta rồi. Lưỡi thưởng thức vị ngon khoái khẩu hoặc vị cay đắng tái tê thì ấn tượng vị trần đã ghi đậm nét trong tâm thức chúng ta. Thân xúc chạm những vật có cảm giác thỏa mãn hoặc cảm giác đau khổ thì ấn tượng xúc trần đã rơi rớt vào kho tâm thức mình rồi. Những thứ bóng dáng của năm trần lưu trữ trong kho tâm thức, đợi khi năm căn không tiếp xúc với hiện cảnh thì chúng ào ạt dấy khởi, gọi là pháp trần. Pháp trần vừa dấy lên thì ý thức duyên theo phân biệt, nên nói ý thức duyên pháp trần. Ý thức chạy theo pháp trần là bám chặt bóng dáng hư ảo, đuổi theo cái sanh diệt hư ảo là sanh tử luân hồi. Chú thấy nguy hiểm không?_

 Thế mà người đời cứ săn đuổi tìm kiếm năm trần để làm thỏa mãn năm căn. Giả sử năm căn được thỏa mãn, con người có an lành miên viễn không? Khao khát ước mơ thụ hưởng năm trần là dồn chứa pháp trần vào tâm thức, thử hỏi kho tàng thức của họ có tràn trề pháp trần không? Vì thế khi họ ngồi yên tọa thiền hay niệm Phật, vọng tưởng vọt lên ào ào không cách nào ngăn đón được, họ than tu hành khó quá. Nếu người nào trong tâm thức trống sạch pháp trần thì con khỉ ý thức không còn cơ hội chạy nhảy. Ý thức là vọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh của chúng ta. Bản thân ý thức tự không có, do pháp trần khuấy động nảy sanh ý thức duyên theo. Do đó, người tu gắng sức đè dẹp ý thức là không hợp lý, cốt đừng dung chứa pháp trần là yên. Nếu pháp trần đã chứa, phải khéo léo loại bỏ, đồng thời không nuôi dưỡng chúng. Ðức Phật dạy rất nhiều phương tiện ngăn đón và loại bỏ pháp trần. Cụ thể những phương tiện sau đây: 
-Răn cấm để ngừa đón pháp trần.- Phật cấm người xuất gia không được nhìn xem với vẻ trìu mến sắc đẹp người và vật, cốt ngừa đón nhãn căn tiếp xúc sắc trần không cho sanh pháp trần rơi trong tâm thức. Người xuất gia không được nghe âm nhạc tình tứ lãng mạn, ngừa đón nhĩ căn tiếp xúc thanh trần không cho sanh pháp trần. Người xuất gia không được dùng các thứ dầu thơm, ngừa đón tỷ căn tiếp xúc hương trần không sanh pháp trần. Người xuất gia không được ăn thịt uống rượu và đòi các món ngon khác, ngừa đón thiệt căn tiếp xúc vị trần không sanh pháp trần. Người xuất gia không được dâm dục và nằm ngồi giường ghế êm đẹp, ngừa đón thân căn tiếp xúc xúc trần không sanh pháp trần... Ðây là đức Phật dùng giới luật làm phương tiện ban đầu để ngừa đón không cho sanh pháp trần lưu trữ trong tâm thức.
- Dùng trí tuệ quán sát.- Con người do chấp thân, tâm, cảnh là thật nên suốt ngày quay cuồng vì ba thứ này, tạo ra vô số chủng tử pháp trần lưu trữ trong tàng thức. Người tu Phật phải vận dụng trí tuệ quán chiếu căn trần thức đều do nhân duyên hòa hợp mà có, không thực thể. Căn là thân, trần là cảnh, thức là tâm, cả ba đều do nhân duyên hội tụ mà thành, cũng do ba thứ này duyên nhau tạo thành nhân sinh vũ trụ. Như thế, nhân sinh vũ trụ đều là tướng duyên hợp không có chủ thể, đủ duyên thì thành, thiếu duyên thì hoại, hư dối không thật như huyễn như hóa. Quán chiếu thuần thục thấy ba thứ ấy quả thực không thật, thì sự xúc chạm thành hoại đến đi của chúng không còn gì phải bận tâm ta, tức là không còn duyên cớ để sanh ra pháp trần. Ðây là dùng trí tuệ của chính mình để quán chiếu phá tan mọi chủng tử pháp trần.
- Nhận ra chân tâm hằng hữu.- Nơi mỗi chúng ta đều có tâm thể chân thật hằng hữu. Vì quên nó, chúng ta cố chấp thân này là thật, chạy theo sự đòi hỏi của năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) muốn được thụ hưởng thỏa mãn đối với năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc), dấy lên sự so sánh phân biệt của năm trần là năm thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức), do chú tâm phân biệt tạo nên pháp trần rơi vào tàng thức. Pháp trần đã lưu trữ trong tàng thức, nên khi dấy khởi liền có ý thức duyên theo, tức là thành sáu căn, sáu trần và sáu thức. Thấy thân thật thì căn trần thức đều thật. Do nhận ra tâm thể chân thật hằng hữu mới thực là mình, người này liền biết thân do tứ đại hòa hợp là hư giả. Thấy thân giả thì căn trần thức đều giả, tự nhiên chúng ta sẽ dửng dưng không dính mắc với sáu trần. Nhà Thiền nói: "Thấy sắc như đui, nghe tiếng như điếc", hoặc nói "căn trần không dính nhau là giải thoát". Ðến đây không dùng phương tiện ngừa đón hay dùng trí tuệ quán sát, chỉ nhớ tâm chân thật hiện hữu thì mọi thứ hư dối đều dừng. 

- Cao thấp, sức ép, sức hút nước chảy dụ năm trần.- Năm căn chúng ta có sẵn tính luyến ái năm trần, khi tiếp xúc với trần nào đúng sở thích của nó liền bị sức hút lôi cuốn. Như mắt thấy sắc đẹp bị sức hấp dẫn nó liền chạy theo đuổi bắt, bị sắc trần lôi cuốn. Tai nghe tiếng hay say mê đòi được thỏa mãn lỗ tai, tìm mọi cách gần gũi, bị thanh trần chi phối. Mũi ngửi mùi thơm say đắm dùng trăm phương ngàn kế để được ngửi mãi, bị hương trần trói buộc. Lưỡi nếm vị ngon thích khẩu tham mê đòi hỏi thường được thưởng thức, dùng mọi thủ đoạn tranh giành để thỏa mãn cái lưỡi, bị vị trần làm chủ. Thân xúc chạm vật có cảm giác hấp dẫn đam mê, dùng mọi thủ thuật chiếm hữu bất kể trước mắt có những hiểm nguy, bị xúc trần xỏ mũi.
Chận đón năm căn khỏi bị năm trần lôi cuốn.


- Quán các cảm thọ vô thường.- Con người thường bị cảm giác khổ vui làm chủ, khi mắt thấy sắc đẹp vừa ý liền bị cảm giác thọ vui thu hút. Chúng ta phải quán sát cái cảm giác thọ vui vừa có, liền qua mất không lâu bền. Các cảm giác thọ vui của tai, mũi, lưỡi, thân cũng thảy đều vô thường, vừa cảm nhận thụ hưởng thích thú trong giây phút liền mất, nếu còn chỉ là dư vị trong tưởng tượng mà thôi. Theo đuổi những thú vui tạm bợ mỏng manh ấy, thật là hoài công của một kiếp người. Nhận chân lẽ thật này, chúng ta sẽ làm chủ được mình không bị năm trần lôi kéo.
- Quán các cảm thọ hư dối.- Những cảm thọ khổ vui của năm căn vốn không tự có, đợi sự tiếp xúc giữa căn và trần mới nảy sanh. Phàm vật gì đợi duyên hợp mới có là không tự thể. Cảm thọ khổ vui đã không tự thể làm sao thật được. Do duyên hợp mà có, duyên tan liền mất, cái có ấy như trò ảo thuật, như giấc chiêm bao, chúng ta quan tâm làm gì? Con người là thông minh hơn muôn vật chẳng lẽ chúng ta nỡ thả trôi suốt đời mình theo cái ảo hóa ấy sao? Song thật đáng thương, con người cả đời say mê đắm đuối theo cái cảm thọ vui của năm căn này. Giành giựt nhau thụ hưởng, sát phạt nhau để được phần hơn, trù rủa, xâu xé, oán hờn, thù hận... chỉ vì thụ hưởng vui của năm căn mà ra. Chúng ta mang chiếc thân tạm bợ có mấy mươi năm đành cam vùi dập nó trong cái chùm ảo hóa, xô đẩy lôi kéo nhau xuống hồ sâu huyết lệ thương đau. Sao chúng ta không thức tỉnh, để an ủi nhau, đùm bọc nhau, che chở nhau, giúp đỡ nhau cho vơi bớt khổ đau trong cuộc đời hư ảo tạm bợ này? 
Này chú! Tôi đã nói khá nhiều e chú không thể nhớ nổi, giờ đây tôi thu gọn lại cho chú dễ nhớ. Nước biển dụ tâm thể hay chân tâm. Sóng dụ vọng tưởng. Gió dụ pháp trần. Chỗ cao thấp, sức ép, sức hút dụ năm trần. Nước vốn không dậy sóng, không chảy để dụ tâm thể hằng hữu bất động. Song khi gió thổi đùa nước, sóng liền nổi dậy để dụ pháp trần lưu trữ trong tàng thức khi gặp duyên dấy lên, ý thức liền duyên theo tạo thành vọng tưởng lăng xăng. Nước là thể lỏng tự an tịnh, gặp duyên cao thấp, sức ép, sức hút liền di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác biến thành nước chảy, để dụ tâm thể tự an tịnh bị sức lôi cuốn thu hút của năm trần khiến năm thức trôi lăn theo rồi dính mắc.

Chúng ta tu theo Phật không sợ vọng tưởng, không ngại năm trần (ngũ dục), chỉ cần khôn ngoan khi căn trần tiếp xúc nhau đừng để dính mắc và tạo ra pháp trần gieo vào tàng thức. Không dính mắc là giải thoát, không có pháp trần là tâm thể thanh tịnh. Giải thoát và thanh tịnh là mục tiêu tối hậu của người tu Phật. Muốn đạt được mục đích này, chú phải khéo ngăn ngừa rào đón khi căn trần tiếp xúc nhau sanh cảm thọ khổ vui, biết rõ các cảm thọ này là tạm bợ hư ảo, là nhân trầm luân đau khổ; không thèm thuồng, không hưởng thụ, không say đắm, mà dửng dưng trước mọi cám dỗ và thách đố của chúng. Ðược vậy, bảo đảm chú sẽ thành công trên đường học đạo.
 
SỐNG PHÚT HIỆN TẠI

- Hỏi cuộc sống bao lâu tất cả?
- Xin thưa thầy chừng cỡ tám mươi.
- Trả lời như vậy sai rồi.
- Bảy mươi năm sống thưa thầy đúng chăng?
- Vẫn chưa đúng, tuy rằng gần đúng.
- Xin thưa thầy chỉ khoảng sáu mươi.
- Trả lời càng tiếp càng sai.
- Vậy thầy chỉ dạy cho hay thế nào?
Thầy cười mỉm chỉ vào khoảng trống:
- Hỏi đời người cuộc sống bao lâu?
Rằng trong thiên ý nhiệm mầu,
Tựa như hơi thở tan vào thiên nhiên.
Nguyễn Tường

PHÍA SAU SỰ CHẾT

Có câu hỏi xin thầy giải thích:
'Con người sau khi chết về đâu?'
Thầy nghe suy nghĩ chẳng lâu,
Mỉm cười ông chỉ lắc đầu làm thinh.
- Thầy là bậc thông minh đại trí,
Con hỏi câu như thế khó chăng?
Bây giờ ông mới đáp rằng:
- Vì tôi chưa chết, nói càn được chi?
Nguyễn Tường



DIỆU ĐẠO NAN CẦU
KHÔNG CÓ CÓ KHÔNG?
HẠNH BỐ THÍ (CTLĐ 1)
LỜI NÓI – ÁI NGỮ
LUẬT NHÂN QUẢ
LỄ KÍNH CHƯ PHẬT
PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN

Saturday, September 14, 2013

*** NHỮNG HẠNH PHÚC NHỎ




Nếu có ai hỏi “Mục đích của cuộc đời là gì”", hay là “Mục đích của sự tu tập là để làm gì?”, tôi nghĩ mình sẽ mượn câu trả lời của đức Ðạt Lai Lạt Ma để đáp, “Mục đích của sự sống là để đi tìm hạnh phúc.” Một hạnh phúc chân thật, không bị vướng mắc và ràng buộc.

Có lần trả lời cho một vị đệ tử, đức Phật nói, “Tôi chỉ dạy có mỗi một điều mà thôi, đó là khổ đau và con đường để chấm dứt khổ đau.” Hay nói một cách khác, là con đường đi đến hạnh phúc.
 
Có người khi nghe các thầy dạy rằng trên con đường tu học mình nên lấy sự an lạc và thảnh thơi để làm tiêu chuẩn, thì đôi khi họ không đồng ý lắm. Chúng ta thường cho là sự tu tập phải cao hơn thế, phải vượt lên trên cả vấn đề hạnh phúc và khổ đau. Nhưng tôi nghĩ, vượt lên trên nó không có nghĩa là ta phải chối bỏ nó. An Lạc, hạnh phúc cũng là một yếu tố của Niết Bàn! Mà con đường đi đến hạnh phúc lớn, tôi nghĩ phải được làm bằng những hạnh phúc nhỏ.

Làm bằng những hạnh phúc nhỏ.
Sống trong đời, muốn có hạnh phúc, chúng ta phải biết tiếp xúc, với sự sống của mình. Trước hết, chúng ta có thể đặt câu hỏi là sự sống của mình được làm bằng những gì? Nếu nhìn cho sâu sắc, ta sẽ thấy rằng cuộc đời của ta được làm bằng những buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, những người bạn, người thương của mình, bằng con đường mình đi, bằng những giọt mưa, những sợi nắng… mà nếu ta không có mặt để tiếp xúc với những hạnh phúc nhỏ ấy, thì làm sao ta có thể thật sự sống được, có hạnh phúc được!

Tôi nhớ có lần được đọc rằng: You are not able to enjoy life because you are not able to enjoy the things in life. Sự thật đơn giản là như vậy. Nếu ta không biết tiếp xúc, hạnh phúc với những gì đang có mặt chung quanh ta, thì làm sao ta có thể sống hạnh phúc được? Cuộc sống của ta là gì, thật ra nó được làm bằng những cái nhỏ ấy.

Trên con đường đời của ta đi, chúng là những đóa hoa, những hạt sỏi, những ngọn cỏ, những chiếc lá của bốn mùa… mà ta chỉ có dịp tiếp xúc một lần trên con đường mình qua. Chúng tuy không quan trọng nhưng chúng chính là cuộc đời của ta, giúp ta tiếp xúc với sự sống, với hạnh phúc đang có mặt chung quanh mình.

Ðiều ấy có nghĩa, hạnh phúc không phải là những gì chúng ta cần phải lao công, tìm kiếm, mà hạnh phúc là những gì chúng ta chỉ cần dừng lại và nhận diện mà thôi. Vấn đề ở đây không phải là “discover” mà là “uncover” hạnh phúc. Một nhà thơ của La Mã, Horace, có dùng chữ “Carpe diem” có nghĩa là “Seize the day”, nắm bắt ngày hôm nay, như là một công thức để sống hạnh phúc. Ngày nay tôi thấy người ta dùng chữ đó rất nhiều. Nhất là những người trẻ.

Nhưng tôi nghĩ ta cũng cần nên xét lại thái độ ấy. Theo tôi nghĩ, thật ra chúng ta không cần nắm bắt một ngày nào hết, chúng ta chỉ cần tập dừng lại, và nhận diện những gì đang có mặt mà thôi. Thay vì “nắm bắt ngày hôm nay” chúng ta nên tập dừng lại trong một ngày, hoặc là chỉ một giây phút thôi, thì cũng đã là hạnh phúc lắm rồi.

Hạnh phúc đang có mặt, chúng ta chỉ cần tập dừng lại mà tiếp xúc. Mặt trời bình minh, hoàng hôn cũng đẹp, và một chiếc lá, một cọng cỏ cũng đẹp. Trăng rằm mười sáu đẹp, mà một ngọn nến nhỏ cũng đẹp. Không có một cái gì trên đời này là tầm thường hết. Lẽ dĩ nhiên nó đòi hỏi một công phu, một cái nhìn sâu sắc của ta. Nếu chúng ta chịu nhìn lại những gì đang có mặt chung quanh, ta sẽ thấy những gì mà ta cho là tầm thường, thật ra chúng nhiệm mầu hơn ta nghĩ. Cuộc sống của ta có rất nhiều cái hay và đẹp. Có ngày nắng, ngày mưa, có tăng thân, có bạn bè, có những đóa hoa, những em bé… – vùng này mùa Thu rất đẹp. Thiên nhiên là một bức tranh muôn mầu sắc. Có lần tôi được nghe một thiền sư nói,

What is Autumn? Autumn is a season in which each leaf is a flower. Mỗi chiếc lá Thu là một phép lạ, mà mỗi người chúng ta cũng là một sự kiện nhiệm mầu nữa.
Chúng ta ai cũng có khả năng hiểu biết và thương yêu, ai cũng có khả năng sống hạnh phúc, ai cũng có thể làm cho người chung quanh mình bớt khổ đau hơn.

Chăm sóc quả trái hạnh phúc.
Trên con đường tu học, chúng ta thường được nhắc nhở là mình nên chăm sóc và nuôi dưỡng những hạt giống an lạc, hạnh phúc trong ta. Nhưng ở đây tôi muốn nói đến việc chăm sóc những quả trái hạnh phúc của mình. Quả trái hạnh phúc là những gì bình thường, an lành đang có mặt trong ta và chung quanh ta trong giờ phút này. Hãy giữ gìn và chăm sóc chúng. Vì khi ta chăm sóc cho những quả trái ấy trong hôm nay, là ta cũng đang nuôi dưỡng và tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc trong tương lai. 

Trong đời sống hằng ngày, tôi thực tập nuôi dưỡng chúng bằng cách gần gũi và tiếp xúc với những môi trường, thiên nhiên và con người, an lạc và hạnh phúc. Tôi nhớ trong khoa học vật lý có một định luật là “Bao giờ cũng có nhiều cách để phá hỏng một hệ thống hoạt động, hơn là những cách để cải tiến nó.” “There are always more ways to impair a working system than to improve it.” Tôi nghĩ định luật đó áp dụng rất chính xác cho các hiện tượng vật lý mà cũng đúng cho cuộc sống hằng ngày của ta nữa. Một tình bạn, hạnh phúc gia đình, gây dựng lên thì rất chậm, cần nhiều thời gian, nhưng mà khi nó sụp đổ xuống thì rất là nhanh. Nhiều khi chỉ bằng một câu nói, một hành động nhỏ, một sự hiểu lầm mà thôi. Hạnh phúc nào cũng cần phải có sự nuôi dưỡng và gìn giữ của ta. Hãy giữ gìn những người bạn thương và hiểu mình, liên hệ trong gia đình, tăng thân, những người thân thương của mình…

Chúng là những quả trái hạnh phúc mà chúng ta cần nuôi dưỡng. Sáng nay ta bước ra ngoài nhìn được những chiếc lá thu, đôi mắt ta là một quả trái hạnh phúc. Ta còn ngồi xuống chia xẻ được với một người bạn thân, anh ta là một quả trái hạnh phúc. Tôi còn có những ngày tu học an lạc, tăng thân của tôi là một quả trái hạnh phúc… Hãy trân quý và gìn giữ chúng. Ðó là những quả trái hạnh phúc trong cuộc đời này mà ta đang có. Chúng ta cần chăm sóc chúng, vì những hạnh phúc ấy cũng đang nuôi dưỡng và chăm sóc cho chính ta.


Năng lượng chuyển hóa khổ đau.
Các bạn biết không, tôi nghĩ chúng ta có thể chuyển hóa khổ đau bằng cách tiếp xúc với hạnh phúc của mình. Ta có thể chuyển hóa khổ thọ bằng cách nuôi dưỡng những lạc thọ, thay vì là cố gắng đào bới và tìm hiểu những khổ đau của mình. Tôi nghĩ, trước một người đang gặp khổ đau, ta có thể không làm gì cho người ấy hết khổ đau được, nhưng ta có thể giúp cho người ấy mỉm cười, thanh thản trong giây lát được! Khi ta cùng với một người bạn đi thiền hành cho vững chãi, cho thảnh thơi là ta đang thực tập khơi dậy hạt giống hạnh phúc cho nhau. Khi ta đến ngày tu học, ngồi chung với thầy, với bạn là ta đang tiếp xúc với những yếu tố hạnh phúc trong ta. Ánh sáng đâu bao giờ có thể trộn lẫn với bóng tối! Khi ánh sáng có mặt, thì bóng tối sẽ vắng mặt. Khi niềm vui có mặt thì khổ đau sẽ vắng mặt.

Chúng ta đừng nghĩ rằng, ta cần phải giải quyết hết những vấn đề khổ đau của mình rồi ta mới thể có tự tại, thảnh thơi và hạnh phúc được. Hạnh phúc không nhất thiết là sự hoàn toàn chấm dứt của khổ đau. Ði thiền hành với thầy, với tăng thân, ta cảm thấy vững vàng nhờ nương tựa vào năng lượng của thầy và tăng thân. Tiếp xúc với thiên nhiên, ngồi uống trà với một người có thực tập cũng là những yếu tố hạnh phúc.

Học về Tàng Thức, chúng ta biết rằng, hạt giống an lạc bao giờ cũng có mặt trong ta. Khi ta tiếp xúc với những yếu tố hạnh phúc ấy, thì ta cũng sẽ là hạnh phúc. Hể biết khơi chúng dậy thì ta sẽ có hạnh phúc, mặc dù trong giờ phút này, ta có thể đang có những khổ đau.
Những khó khăn về đời sống tuy vẫn còn đó, nhưng năng lượng an lạc sẽ giúp cho ta có một cái nhìn sáng tỏ hơn, giúp ta giải quyết vấn đề dễ dàng hơn. Hạnh phúc không nằm ở sự vắng mặt của khổ đau mà là ở khả năng chyển hóa khổ đau trong ta. Lẽ dĩ nhiên là nó cần công phu thực tập.

Con Ðường Hạnh Phúc.
Phật là một con người rất thực tế, cũng như giáo pháp của ngài. Khi người ta hỏi Phật dạy gì, Ngài nói “Tôi dạy, khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau” Khi được hỏi về những vấn đề liên quan đến vũ trụ, thần học, huyền bí… Ngài im lặng không trả lời. Phật nói những gì Ngài dạy chỉ có một mùi vị duy nhất là tự tại và giải thoát. Khi có người hỏi Phật là ai, Ngài không nhận mình là thượng đế, thần linh, siêu nhân, mà nói Ngài chỉ là một người mà thôi, một người Tỉnh Thức, một người có hạnh phúc. Phật nhắc nhở chúng ta rằng, Ngài dạy bằng một bàn tay rộng mở. Ngài trao truyền hết cho chúng ta những gì ngài biết, không dấu diếm một điều gì hết.

Vì vậy mà con đường tu học của ta cũng phải thực tế như lời dạy của Phật. Nó phải có tác dụng chuyển hóa những vấn đề, những khổ đau của chính mình. Chúng ta nên học và thực tập theo kinh nghiệm và trong hoàn cảnh của chính mình. Ta hãy quán chiếu về những khó khăn và khổ đau của chính mình, xem sự thực tập có thể làm gì được để chuyển hóa chúng. Sự thực tập phải có liên quan trực tiếp đến một vấn đề, một khổ đau nào đó của ta. Chứ bằng không, tất cả chỉ là lý thuyết suông mà thôi.

Khi ta thấy được rằng, sự thực tập có thể mang lại những ích lợi thực tiễn, ta sẽ có một niềm vui. Trên con đường tu học, chúng ta cần nuôi dưỡng hạnh phúc, ta cần có một niềm vui, vì nếu thiếu hạnh phúc ta khó mà đi được lâu dài lắm. Con đường thực tập cần có một yếu tố là sự tinh tấn. Tinh tấn thường được hiểu như là một sự cố gắng và nỗ lực. Nhưng nó cũng có nghĩa là cái ý thích, cái nhiệt tâm muốn làm của ta. Vì khi ta thích một điều gì thì ta sẽ làm mà không bao giờ biết chán, biết mệt. Như có rất nhiều người hỏi, làm sao mà mình có thì giờ viết báo, rồi viết sách, đi ngày quán niệm, tham dự các khóa tu… trong khi ta bận rộn gia đình và còn phải đi làm mỗi ngày?

Nhưng thật ra ta thấy những người đặt câu hỏi ấy, họ cũng có rất nhiều việc để làm, ngoài sở làm, bận bịu chuyện gia đình, họ còn có nhiều dự án khác nữa… mà ta cũng thắc mắc là làm sao họ lại có thì giờ nhiều đến thế!
Tôi nghĩ, vấn đề là nếu ta thích việc mình làm, ta sẽ không thấy đó là khó, là khổ, là mất thì giờ. Mỗi bước chân ta đi trên con đường tu học là một hạnh phúc nhỏ. Vì vậy, dầu con đường tuy có dài, nhưng ta vẫn cứ thảnh thơi mà đi.

Hạnh Phúc và Phương Tiện
Bây giờ giả sử như nếu tôi hỏi các bạn, “Tại sao, anh chị lại muốn có hạnh phúc?” Bạn sẽ trả lời sao! Thật ra thì câu đó làm sao mình trả lời cho đúng được! Tại vì hạnh phúc tự chính nó là chân thật, là cứu cánh, là đủ hết rồi, nó đâu cần có một cái gì khác để nương tựa đâu.

Nhưng nếu tôi hỏi “Tại sao chị lại mua chiếc xe mới, hay là tại sao chị lại đi nghỉ hè nơi đó?” Thì ta có thể dễ dàng có câu trả lời. “Vì tôi muốn sống thoải mái hơn, tôi muốn được vui, muốn có hạnh phúc…”Tôi làm những cái đó là vì tôi nghĩ nó sẽ mang đến cho tôi hạnh phúc.” Một bên là phương tiện và một bên là cứu cánh.
Nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta lại thường bỏ rất nhiều công sức vào phương tiện mà quên đi cứu cánh của nó. Bây giờ ta hãy thử nhìn lại những gì mình đang có, và ý thức rằng mục tiêu của chúng là để mang lại cho ta hạnh phúc. Và rồi ta hãy thành thật tự trả lời cho chính mình: chúng có thật sự mang lại cho ta một hạnh phúc nào không?

Nhiều khi ta cứ lầm lẫn phương tiện cũng là cứu cánh! Mục đích của chiếc bè là để mang ta sang bờ bên kia, còn ngoài ra nó không còn có một công dụng nào khác. Và trong bài nói chuyện hôm nay chúng tôi muốn trình bày đến các bạn về một trong những lối sống hạnh phúc, mà hạnh phúc ở đây là một thứ hạnh phúc có tính cách vững chãi và thảnh thơi, không dính mắc, và hạnh phúc ấy theo lời Phật dạy mới thật là một chân hạnh phúc.

 CƯ SĨ TỪ GIAO



Nếu chỉ vì ngũ quan không thể cảm nhận được mà ta quả quyết rằng Niết Bàn là hư vô, là không không, không có gì hết, thì cũng phi lý như người mù kết luận rằng trong đời không có ánh sáng, chỉ vì không bao giờ anh ta thấy ánh sáng. Trong ngụ ngôn "Rùa và Cá" được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói với rùa, cá dõng dạc kết luận rằng không có đất, bởi vì có những câu hỏi của cá đều được rùa trả lời là "không".

Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê bơi lội trong ao đầm quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi dạo trên đất liền. Cá hỏi: "Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn lâu tôi không gặp?" 

- Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên trên đất khô. Rùa trả lời.
- Đất khô à! Cá lấy làm ngạc nhiên. Chị nói đất khô, vậy đất khô là gì? Đất làm sao khô được? Tôi chưa bao giờ thấy cái gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết.
Bẩm tánh ôn hòa, Rùa nhỏ nhẹ đáp:
- Được, tốt lắm, nếu chị muốn nghĩ như vậy cũng tốt. Không ai ngăn cản chị đâu. Tuy nhiên, chỗ mà tôi đi mấy hôm rày đất khô thật.
- Nầy chị rùa, đâu chị nói rõ lại coi. Đất khô mà chị nói ra làm sao, giống như cái gì? Nó có ẩm ướt không?
- Không, đất khô không ẩm ướt.
- Đất khô có mát mẻ và êm dịu, dễ chịu không?
- Không, đất khô không mát mẻ và êm dịu dễ chịu.
- Đất khô trong suốt và ánh sáng rọi xuyên qua được không?
- Không, đất khô không trong suốt và ánh sáng không rọi xuyên qua được.
- Đất khô có mềm mại và dịu dàng để mình bơi lội trong ấy không?
- Không, đất khô không mềm mại dịu dàng, và mình không thể bơi lội trong lòng đất.
- Đất có di chuyển và trôi chảy thành dòng không?
- Không, đất không di chuyển và trôi chảy thành dòng.
- Đất có nổi sóng và tan ra thành bọt kông? Cá rất bực mình với loạt câu trả lời "không, không, …" của rùa.
- Không, đất không nổi sóng. Rùa thành thật trả lời.
Cá bỗng nhiên lộ vẻ hân hoan của người đắc thắng và vang lên:
- Thấy chưa, thật quả như tôi đã nói chớ gì nữa! Tôi đã bảo rằng đất khô của chị là hư vô, không có gì hết. Tôi hỏi và chị đã xác nhận rằng đất khô và không ẩm ướt, không mát mẻ, không êm dịu và không trong suốt, và ánh sáng không rọi xuyên qua được, không mềm mại và dễ chịu để mình có hể bơi lội trong ấy, đất cũng không di chuyển và trôi thành dòng, cũng không nổi sóng và cũng không tan rã thành bọt. Không phải gì hết thì có phải là hư vô không?
Rùa đáp:
- Được, tốt lắm. Nầy chị cá, nếu chị quả quyết rằng đất là hư vô, không có gì hết, thì chị cứ tiếp tục nghĩ như thế. Thật ra, người nào đã biết nước và đất liền rồi sẽ nói rằng chị chỉ là con cá dại dột, vì chị quả quyết rằng cái gì mà chị không biết là không có gì hết, hư vô. Nói là hư vô bởi vì chị không bao giờ biết. 
Đến đây, rùa bỏ cá ở lại một mình với ao đầm nhỏ bé, quay đầu lội đi và suy tưởng đến một cuộc viễn du khác trên đất khô, nơi mà cá tưởng tượng là hư vô…
Câu chuyện lý thú nầy ngụ ý tuy rằng đã có sống trong nước và trên khô, rùa không giải thích cho cá bản chất thật sự của đất vì cá chỉ biết nước mà cá cũng không thể nhận thức được thế nào là đất liền, vì chỉ biết có nước thôi. Cũng thế ấy, tuy chư vị A La Hán đã từng biết thế nào là thời gian và trạng thái siêu thế là sao, nhưng các ngài không thể dùng ngôn ngữ của thế gian để mô tả trạng thái siêu thế mà người tại thế cũng không thể nhận thức trạng thái siêu thế là sao, bằng sự hiểu biết của thế gian. 

Niết Bàn là hư vô, tức nhiên Niết Bàn phải trùng hợp với không gian (akasa). Cả hai, Niết Bàn và không gian, đều vĩnh cửu và không biến đổi. Không gian là vĩnh cửu vì nó là hư vô. Thật ra, Niết Bàn ở ngoài không gian và thời gian. Về sự khác biệt không gian và Niết Bàn ta có thể tóm tắt rằng, không gian là Không, nhưng Niết Bàn là Có.
 
SỬ DỤNG TIỀN BẠC ĐÚNG PHÁP

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Rồi vua Pasenadi nước Kosala, vào buổi trưa đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi đang ngồi một bên:
Thưa Ðại vương, Ðại vương đi từ đâu đến trong giữa trưa như thế này? 
Ở đây, bạch Thế Tôn, có triệu phú gia chủ ở Sàvatthi bị mệnh chung, và con đến để xem tài sản của vị không có con ấy được chở vào nội thành. Bạch Thế Tôn, có đến tám triệu đồng tiền vàng, không nói đến tiền bằng bạc. Bạch Thế Tôn, tuy vậy đồ ăn của triệu phú gia chủ ấy lại chỉ gồm có cháo tấm chua ngày hôm qua để lại. Còn vải mặc chỉ mang vải gai may thành ba tấm. Còn xe thì đi xe nhỏ, cũ kỹ và hư nát, có gắn tán che bằng lá.

Thật như vậy, thưa Ðại vương! Một kẻ không phải Chân nhân, thưa Ðại vương, dầu cho có được tài sản lớn không đem lại an lạc cho mình, không đem lại an lạc cho cha mẹ, không đem lại an lạc cho vợ con, không đem lại an lạc cho các người phục vụ, cho các người làm công hoan hỷ, không đem lại an lạc cho bạn bè thân hữu; đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, không thiết trí các sự cúng dường hướng thượng, có khả năng đưa lên thượng giới, đưa đến lạc quả, hướng đến Thiên giới.

 Các tài sản của người ấy nếu không thọ dụng chơn chánh, thời vua chúa sẽ cướp đoạt, hay trộm cắp cướp đoạt, hay bị lửa đốt, hay bị nước cuốn trôi, hay bị con cháu thừa tự thù nghịch cướp đoạt. Sự việc là như vậy, thưa Ðại vương, các tài sản nếu không thọ dụng chơn chánh, đưa đến tổn giảm, không đưa đến thọ hưởng.

Và bậc Chân nhân, thưa Ðại vương, có được tài sản lớn, đem lại an lạc cho mình, đem lại an lạc cho cha mẹ, đem lại an lạc cho vợ con, đem lại an lạc cho người phục vụ, cho người làm công, đem lại an lạc cho bạn bè thân hữu; đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thiết trí các sự cúng dường hướng thượng, có khả năng thăng lên thượng giới, đưa đến lạc quả, hướng đến Thiên giới. 

Các tài sản của người ấy được thọ dụng chơn chánh, thời vua chúa không cướp đoạt, hay trộm cắp không cướp đoạt, hay không bị lửa đốt, hay không bị nước cuốn trôi, hay không bị con cháu thừa tự thù nghịch cướp đoạt. Sự việc là như vậy, thưa Ðại vương, các tài sản nếu thọ dụng chơn chánh, sẽ đưa đến thọ hưởng, không đưa đến tổn giảm.
(Tương Ưng Bộ I, chương 3, phẩm 2)

SUY NGHIỆM:
Làm ra nhiều tiền của, có tài sản lớn vốn rất khó khăn nhưng biết xài tiền cho đúng đắn, hợp lý lại là điều không phải dễ. Mới hay, không phải hễ “có tiền thì mua tiên cũng được”.

Có thể xem “thọ dụng chơn chánh” chính là quan điểm của Thế Tôn về việc sử dụng tiền bạc, nói nôm na là tiêu tiền, sử dụng đồng tiền của mình làm ra để mình và người đều lợi ích.
Trước hết, tiền bạc mình làm ra để cải thiện đời sống cho chính mình, đem đến an lạc cho cha mẹ và vợ con, nói chung là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Kế đến là san sẻ lợi lộc ấy đến các cộng sự, nhân viên, bạn bè thân hữu, những người đã góp sức làm ra tiền bạc cho mình.

Điều đáng nói ở đây là Thế Tôn đã đề cập đến lợi ích song phương. Quan tâm đến lợi ích cộng đồng, gần nhất là những cộng sự và thân hữu như là một phương cách để duy trì sự phát triển ổn định, bền vững. Trong bối cảnh phân biệt giai cấp vô cùng khắc nghiệt như xã hội Ấn Độ cổ đại thì quan điểm này của Thế Tôn thật đáng trân trọng.

Không chỉ thiết lập hạnh phúc trong hiện tại, Thế Tôn còn chỉ dạy phương thức thiết lập hạnh phúc trong đời vị lai bằng cách cúng dường chư vị Sa-môn. Tam bảo là ruộng phước tối thắng trong thế gian, dùng một phần tài sản có được dâng cúng Tam bảo để trang nghiêm phước báo tự thân cũng là một cách sử dụng tiền bạc có ý nghĩa.

Tiền bạc nói cho cùng cũng chỉ là phương tiện. Nếu tiêu xài phung phí vô bổ, không dùng đồng tiền có được để làm lợi ích cho đời sống cá nhân và cộng đồng thì tiền bạc ấy xem ra cũng chẳng có mấy giá trị, vì không biết thọ dụng chơn chánh. Hoặc bo bo cất chứa tiền bạc cho đầy kho lẫm mà chẳng khiến sinh thêm lợi ích cho mình và người thì kết cuộc ra đi mình cũng trắng tay.

Do vậy, người đệ tử Phật sau khi cần mẫn lao động, kiếm tiền cần phải sử dụng tiền bạc đúng pháp để đem đến lợi ích cho mình và người, đời này và những đời sau.
theo:GNO



  •  Bài Học Bổ Ích Cây đinh và khúc gỗ 
  •  
  • 2. Ngày xưa, có một cậu bé nóng tính. Bố cậu đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng: Cứ mỗi lần mất bình tỉnh, mất kiên nhẫn, hoặc cãi nhau với ai, thì cậu đóng một cái đinh vào khúc gỗ.Ngày đầu tiên, cậu đóng 37 cái đinh vào khúc gỗ. Ngày qua ngày,vài tuần sau, cậu biết cách kềm chế, nên số đinh đóng vào khúc gỗ bớtdần. Lúc đó, cậu khám phá ra là: tự kềm chế dễ hơn là đóng đinh vàokhúc gỗ. Cuối cùng, đến một ngày kia, cậu không phải đóng một cái đinh nào vào khúc gỗ nữa. Cậu đi gặp bố và thưa rằng: Hôm nay con không còn phải đóng cái đinh nào nữa hết! . 
  •  
  • 3. Lúc đó, bố cậu mới bảo rằng: Ngày nào không mất kiên nhẫn, khôngmất bình tỉnh hoặc không cãi nhau với ai, thì con hãy nhổ một cáiđinh ra khỏi khúc gỗ. Ngày lại ngày trôi qua, cuối cùng cậu bé đến gặp bố và thưa rằng: Con đã nhổ tất cả đinh khỏi khúc gỗ rồi! Ông bố bèn dẫn cậu con đến khúc gỗ và bảo: Này con, con đã biết cách xử sự tốt rồi đó! Nhưng con hãy nhìn xem các lỗ đinh trên khúc gỗ. Khúc gỗ hiện nay không còn như trước kia nữa!
  •  
  • 4. Khi con cãi nhau với ai và nói điều gì xấu xa, con đã
    để lại cho người ấy một vết thương trong lòng, cũngnhư những vết đinh trên khúc gỗ này vậy.Con có thể đâm con dao vào một người rồi rút ra,nhưng mãi mãi vẫn còn một vết thương, vết thẹo,phải không? Dù con có xin lỗi bao nhiêu lần đinữa, vết thương vẫn còn đó!
  •  
  • 5. Một vết thương do lời nói gây ra cũng làm đau nhức như một vết thương trên thân thể.Huống nữa đó là một lời chụp mũ, vu khống, cáo gian, làm cho ngườita tù tội, dở sống dở chết, danh dự bị tổn thương, hạnh phúc bị tan vỡ,cuộc đời còn lại chìm đắm trong phiền não khổ đau! Những người bạn là những viên ngọc quí hiếm, họ có thể làm cho con cười và khuyến khích con. Họ sẵn sàng lắng nghe khi con cầnđến. Họ nâng đỡ và mở lòng ra với con. Con hãy làm cho các bạncủa con thấy là con yêu thương họ đến đâu.
  •  
  • 6. Xin nhớ ba chữ “T”: Tôn trọng chính mình (tự trọng) Tôn trọng những người khác Trách nhiệm về các hành vi của bạn.