Monday, February 21, 2011

*** TỰ LỰC MỚI THẬT LÀ TU



 Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

Từ khi con người sinh ra cho đến khi từ giả cõi đời này, cuộc sống đầy dẫy khổ đau, khổ như thật, khổ thiệt sự, khổ vì phiền não tham sân si đầy ắp thân tâm, khổ vì nay thương mai ghét, nay thân mai thù, khổ vì mọi người sống chung quanh mình tư tưởng không đồng nhau, khổ vì hoàn cảnh trái ngang lúc thuận lúc nghịch, khổ vì cơm ăn áo mặc vất vả gian nan, khổ vì cầu khẩn van xin thì nhiều, nhận được chẳng bao nhiêu, hoặc chẳng được gì cả!

Khổ ơi là khổ! Đời là bể khổ! Cuộc sống con người khổ nhiều hơn vui, bất như ý nhiều hơn sự cát tường, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh hay địa vị nào của xã hội. 

Khi nhận đúng, thấy đúng, biết đúng như thực, đời là bể khổ, nhưng không vì thế cảm thấy bi quan, chán đời, sanh tâm mong cầu cõi sung sướng hơn cho thỏa tâm tham, thì con người mới thực sự gọi là phát tâm chọn con đường chân chính tu hành của đạo Phật. Nếu không thấy đời sống khổ như thật, còn thấy cuộc đời hạnh phúc, vui sướng và hướng tâm mong cầu sanh về cõi sung sướng hơn, sung sướng cực điểm, thì đừng nên chọn con đường tu hành của đạo Phật. Chọn lựa như vậy là sai lầm.
- Tại sao như vậy?  

Tại vì lòng tham cõi sung sướng hơn như vậy sẽ dẫn dắt người tu lạc vào tà đạo. Con đường tu hành chân chính của đạo Phật là con đường đi ngược lại với tâm tham lam, sân hận, si mê và mong cầu ỷ lại của người đời.

Con đường tu hành chân chính theo đạo Phật là phải xả bỏ những tâm niệm đầy tham lam, sân hận, si mê, trong kinh sách gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm. Dù tại gia hay xuất gia, người tu phải tự lực rèn luyện tu tập, luôn giữ gìn chánh niệm, luôn trau giồi thúc liễm thân tâm, cố sức tránh xa các ác pháp lợi mình hại người.

Con người phải đầy đủ nghị lực, phải gan dạ, kiên trì, chịu đựng và kham nhẫn, để mạnh dạn dứt bỏ những thói hư, tật xấu, chứ không phải chỉ biết thường vào nơi điện Phật chỉ để cúng kiến, lễ bái, cầu khấn, van xin, nương nhờ tha lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, tiếp độ, trợ lực, cứu khổ cứu nạn, giải thoát khổ đau, tai ương, bệnh tật, hay phóng hào quang tiếp độ những vong hồn người chết về cõi Tây Phương Cực Lạc. Con người phải phát tâm tự lực học hiểu chánh pháp, suy tư nghiền ngẫm những lời dạy quí báu trong kinh sách, để biết cách áp dụng, thực hành trong đời sống thực tế hàng ngày. Chứ không phải tu hành suông bằng cách chỉ biết tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền, hay chuyên luyện bùa, luyện phép để có thần thông, hay huyễn thuật, hoặc để khẩn cầu được sinh về Cực Lạc, Niết Bàn bằng những oai thần, tha lực của chư Phật, chư Bồ Tát, ngoài ra không còn gì hết, không biết gì hết !

Muốn chân chính tu theo đạo Phật để giác ngộ và giải thoát khỏi cảnh khổ đau của muôn kiếp sanh tử luân hồi, con người phải tích cực dùng sức tự lực của chính mình, chuyển hóa thân tâm, chuyển hóa ba nghiệp chưa thanh tịnh thành ba nghiệp thanh tịnh, chứ không phải bằng sự mong cầu, trông chờ, van xin, cầu khẩn tha lực của người khác, dù cho thành tâm tha thiết đến đâu, cũng như tín ngưỡng ngoại đạo mà thôi. 

Trong kinh sách, đức Phật thường dạy tu hành một cách tích cực bằng những pháp môn tự lực, tịnh tông hay thiền tông, không có bài pháp nào dạy tu tập cầu tha lực một cách tiêu cực, ỷ lại. Chẳng hạn như là pháp môn: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, và niệm Giới. Chúng ta nên biết: Phật là tâm sáng suốt, Pháp là tâm chân chánh, Tăng là tâm thanh tịnh. Đó là Tự Tánh Tam Bảo. Đức Phật dạy niệm Phật là nhớ nghĩ đến tâm sáng suốt, nghĩ đến Phật và sống như Phật, chứ không phải chỉ niệm suông danh hiệu Phật; niệm Pháp là nhớ nghĩ đến tâm chân chánh, nghĩ đến Pháp và sống như Pháp, tu tập đúng như pháp, nói năng như pháp, im lặng như pháp, chứ không phải chỉ tụng kinh suông;

Niệm Tăng là nhớ nghĩ đến tâm thanh tịnh, nghĩ đến Tăng và sống như chúng tăng hòa hợp, không chống trái nhau, chứ không phải chỉ cúng dường trai tăng, lễ lạy các vị tăng để cầu phước báu; niệm Giới là nhớ nghĩ đến phẩm hạnh, giới đức và sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm giới luật, dù chỉ phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, chứ không phải chỉ hằng tháng vào ngày 30 ngày rằm cùng nhau tụng giới suông, mà thôi. 

Ở đây, Đức Phật dạy niệm tức là tư duy Phật, Pháp, Tăng và Giới, để thấu triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát như thế nào, rồi noi theo đó mà thực hiện nếp sống và tu tập như Phật, như Pháp, như chúng Thánh Tăng và như Giới luật đã dạy. Có hiểu biết và tu tập như vậy, thì mới có giác ngộ và giải thoát thực sự. Còn như chỉ biết niệm suông danh hiệu Phật, tụng kinh suông, cúng dường trai tăng và đảnh lễ chư tăng và tụng Giới, dù có niệm Phật, Pháp, Tăng, và Giới như vậy cho đến muôn kiếp ngàn đời, thì cũng chẳng có giác ngộ và giải thoát được chút nào.

Tham sân si, cố chấp và ngã mạn, nếu không tăng thì cũng còn y nguyên. Những sự tu hành sai lạc này khiến chẳng còn ai tu chứng. Người tu hành mà hiểu Phật giáo như vậy, tức là chẳng hiểu Phật giáo gì cả. 

Tương tự, trong Kinh A Di Đà, đức Phật có dạy: “Kỳ độ chúng sinh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. Hoặc: “Văn thị âm giả, tự nhiên giai sinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm”. Nghĩa là: Những diệu pháp ấy, chúng sinh cõi này, khi nghe được rồi, hết thảy đều niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Hoặc: Ai nghe tiếng ấy, tự nhiên sinh tâm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.  Xưa nay, chỉ có những người lười biếng, dối mình gạt người, không chịu nghiên tầm học hiểu giáo lý, không thấu rõ lời dạy của chư Phật, chư Tổ, do đó tin bừa, làm càn và rao giảng những điều sai lầm, mê tín, mù mờ. 

Số người mê tín tu mù này, có cả tu sĩ và cư sĩ, đơn giản hóa pháp tu tịnh độ đến mức tối đa, khuyên người chỉ cần niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, thì chắc chắn được vãng sanh, không cần đọc tụng kinh điển, không cần học hiểu giáo lý, sợ bị loạn tâm, không vãng sanh.  Họ lập ra các ban hộ niệm, tự phong cái quyền quyết định dám tuyên bố người này được vãng sanh, người kia không vãng sanh, người này lưu xá lợi, người kia không, mặc dù người mới chết suốt đời không biết chùa chiền, kinh kệ hay tu tập gì ráo! Tiếc thay, số người này thu hút được đám đông si mê, cùng tần số cố chấp, lười tu tập nhưng mong cầu và tin chắc được vãng sanh cực lạc cho sướng cái đã, rồi hẹn lên trên đó tu tiếp sau, dễ dàng hơn nơi cõi ta bà này. 


Khi bước chân vào đạo, ta thường được nghe dạy: bài học tu tập tự lực đầu tiên là phải dứt bỏ các nghề nghiệp ác đang sanh sống hàng ngày, nghĩa là người muốn tu hành theo đạo Phật, thì phải ngưng nghề ác, hành nghề thiện, ngưng việc ác, làm việc thiện. Qua bài kinh dứt các nghề ác, chúng ta thấy rõ sự tự lực của đạo Phật ngay từ ban đầu. Không làm các điều ác. Siêng làm các việc thiện. Giữ tâm ý thanh tịnh. Đó là chư Phật giáo. Khi bước chân vào đạo, ta thường được nghe dạy: “Thông suốt những gì cần phải thông suốt, dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ, tu tập những gì cần phải tu tập, trau giồi những gì cần phải trau giồi”. Những việc làm này là những hành động tự lực. 

Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy:
Tự mình điều ác nhiểm ô.
Tự mình thanh tịnh chính mình.
Tự mình phân minh thiện ác
Không ai giúp ai thanh tịnh.

Đạo Phật là một tôn giáo xây dựng trên nền tảng thiện pháp, mọi ác pháp cần phải loại trừ dứt bỏ. Nhờ có loại trừ ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, cuộc sống mới có sự giải thoát an vui, hạnh phúc cho mình, cho người. Không có con đường nào khác hơn. Loại trừ ác pháp, chỉ có tự lực, không thể có tha lực. Những điều làm ác phải tự mình dứt bỏ chứ không thể cầu cạnh người khác giúp mình được. Ví như nhờ người khác giúp mình đừng ăn cắp, ăn trộm có được không? Không có thể được, phải tự mình biết đó là một việc làm xấu ác, khiến người ta sầu khổ thì mình nên tự lực dứt bỏ, cũng như tự lực dứt bỏ các nghề nghiệp ác, chứ không thể cầu chư Phật giúp mình được. 


Đạo Phật nhìn cuộc đời với đôi mắt nhân quả, chỉ có tự lực dứt bỏ được nghiệp nhân nghiệp quả  mà thôi, dù cho có một đấng vạn năng nào đó cũng không giúp con người việc này được. Đã gieo nghiệp nhân, thì con người chạy đàng trời cũng không tránh thoát nghiệp quả. Thâm tín chánh lý nhân quả là pháp tu tự lực của đạo Phật.

Thời đức Phật còn tại thế, khi nghiệp quả đến với các vị đại đệ tử do nghiệp nhân đã tạo từ nhiều kiếp trước, kiếp này dù đã chứng đắc, các ngài vẫn phải đền trả, chứ không có chuyện còn nghiệp mà được vãng sanh, đức Phật còn không can thiệp, cứu giúp gì được cả. Con người nên nhớ việc này để làm gương, cố gắng hết sức, tự lực tu tập, tinh tiến không ngừng, không lười mỏi. Ðó mới là chánh kiến và chánh tín của người phát tâm tu theo Phật.

Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy:
Lên non xuống biển vào hang
Nghiệp nhân quả báo đã mang
Không ai tránh được thoát được
Như hình bóng đeo theo mình.

Đạo Phật qua hình thức, nghi lễ của một tôn giáo nhằm phát triển, mang ánh sáng từ bi và trí tuệ tới quảng đại quần chúng, độ tận chúng sanh, nhưng cốt tủy cao siêu của đạo Phật là phi tôn giáo. Nghĩa là: Đạo Phật là tôn giáo duy nhất  chủ trương không tôn thờ một đấng thiêng liêng vạn năng có quyền lực tối cao hay ban phước giáng họa trên sinh mệnh con người. Đạo Phật là một tôn giáo bi trí dũng, xây dựng con người tự giác, tự lực, tự độ, tự cứu mình thoát ra khỏi cảnh khổ, nên còn gọi là “Độc Cư, Độc Bộ, Độc Hành”. 


Tóm lại,
Khi mê lầm, chúng con khổ, nguyện xin cứu khổ.
Khi giác ngộ, chúng con khổ, nguyện xin tự độ.

Nhờ thế, con người mới biết đạo Phật là đạo tự lực, tự lực mới thực là tu, chính là nghĩa đó vậy. Con người phải tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với chánh pháp. Kinh sách tha lực không phải là kinh sách liễu nghĩa của đạo Phật. Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa.
Đạo Phật có nền đạo đức nhân bản –  chánh lý nhân quả: 
sống
không làm khổ mình,
không làm khổ người,
không làm khổ chúng sanh.
 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
CUTRANLACDAO@YAHOO.COM

*** Nghệ Sĩ Nghĩ Gì Khi Trở Về Với " PHẬT"

 Nghệ sĩ  VIỆT TRINH

Trước đây, khi xem những bộ phim có Việt Trinh đóng hay xem những hình ảnh chị đăng tải trên các báo, người xem thường ấn tượng với đôi mắt to và đượm buồn của chị. Lần gặp ngoài đời này, vẫn đôi mắt to ấy, nhưng lại sáng long lanh ánh hiền hòa và trầm tĩnh khác hẳn với nét đượm buồn xưa kia. 

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, điều đó chứng tỏ, tâm hồn của Việt Trinh đã thay đổi và thay đổi theo chiều hướng tốt. Các thành viên của CLB TNPT TPHCM đã được chị đã chia sẻ về nguyên nhân thay đổi đó.

Việt Trinh sinh ra trong một gia đình thiếu tình thương của người cha. Mẹ chị phải rất tần tảo mưu sinh để nuôi dạy 7 người con ăn học. Một lần chứng kiến cảnh mẹ bị đẩy văng xuống đường khi bám trên chiếc xe chạy bằng than ngày xưa, trong lòng cô bé Việt Trinh đã nung nấu ý chí phải kiếm được thật nhiều tiền để phụ giúp mẹ, để không phải sống cuộc sống vất vả, khổ sở như mẹ. 

Cô bé đã làm thật vì cô cho việc cô làm là đúng. Cô bé đã trốn học đi làm mướn, nhặt ve chai để bán kiếm tiền dù bị mẹ đánh đòn.


Cuộc đời có được thì sẽ có mất. Mất mát đầu tiên mà Việt Trinh phải chứng kiến là sự mất mát khủng khiếp sau chiến tranh. Trong một lần đi lượm ve chai, một người bạn của Việt Trinh đã nhặt được 1 trái bom bi. 

Người bạn đó đã đập trái bom vào vành sắt của bánh xe bò cho các viên bi rơi ra để đem bán, trái bom phát nổ và 3 người bạn của Việt Trinh đã thiệt mạng

Người bạn gái thân nhất của cô bé chỉ đứng cách cô bé khoảng 1m chết vì bị một viên bi găm trúng tim, người bạn trực tiếp đập trái bom thì chết không toàn thây khi mất toàn bộ khuôn mặt vì sức công phá quá mạnh của quả bom và một người bạn khác bị nhiều viên bi găm trúng phổi thì chết trên đường đi cấp cứu vì thiếu phương tiện vận chuyển. Phải công nhận, Việt Trinh là người có phước rất lớn khi thoát được cái chết trong gang tấc. 

Dù được mẹ cho ăn no đòn khi biết chuyện quá nguy hiểm đó, nhưng cô bé Việt Trinh vẫn nhất quyết không từ bỏ tham vọng kiếm tiền của mình.

Cũng nhờ có phước duyên lớn, Việt Trinh đã gặp rất nhiều thuận lợi trên con đường thực hiện tham vọng kiếm tiền đã nung nấu từ thuở nhỏ. Thuận lợi từ việc học tại trường Sân khấu điện ảnh, thuận lợi đến khi thành công trong sự nghiệp và trở nên nổi tiếng.

Nhưng mọi sự đều có cái giá phải trả của nó, với những người tài sắc vẹn toàn, thi hào Nguyễn Du đã tổng kết qua thân phận chìm nổi của Thúy Kiều: “chữ tài liền với chữ tai một vần”. 

Việt Trinh đã nổi tiếng, đã kiếm được nhiều tiền như tham vọng nung nấu ngày xưa và đó cũng là thời gian mà người đẹp Việt Trinh cũng nổi tiếng với ánh mắt đượm buồn.


Tham vọng ngày xưa đã thực hiện được, nhưng từ tham vọng đó đã sinh ra một cái tôi vĩ đại, coi mình là trung tâm của vũ trụ, rồi tâm kiêu ngạo, ích kỷ, ghen tỵ cũng theo cái tham vọng đó sinh ra. 

Ỷ mình có tài năng, sắc đẹp, kiếm được nhiều tiền và giỏi hơn các bạn đồng trang lứa, Việt Trinh đã làm nhiều điều không phải với tha nhân, sẵn sàng xúc phạm người khác, coi thường nhân phẩm của người khác chỉ để phục vụ cho những ích kỷ cá nhân của mình. 

Tiền kiếm được rất nhiều nhưng lại không có sự thanh thản trong tâm nên giấc ngủ mới không tròn đêm và  ánh mắt mới đượm buồn.

Sự kiêu ngạo vượt lên thì tâm khiêm hạ không còn, tính ích kỷ nổi lên thì lòng từ bi biến mất. Nhưng vì ở trên đỉnh cao của sự nổi tiếng nên Việt Trinh đã không nhận ra được lỗi lầm đó mà ngược lại càng lún sâu vào đầm lầy của tham vọng phù phiếm.

Rồi cái gì đến sẽ phải đến. Cuộc đời đã có lúc thăng thì sẽ có khi trầm, ngày qua thì đêm đến. Trong kinh đức Phật dạy rằng: “Ái biệt ly khổ - thương yêu mà bị chia lìa là khổ”. 

Việt Trinh trong hai năm liền mất đi hai người thân là người mẹ và người anh trai gắn bó với chị nhất trong gia đình mới thấm thía chân lý về sự “khổ” đó. 

Nước mắt nếu trào ra bờ mi tự nhiên thì người khác còn cảm nhận được nỗi đau của mình, nhưng khi nước mắt trào ngược vào trong lòng thì nỗi đau đó chỉ có mình mới cảm nhận được, mới thấy sự đau đớn kinh khủng đến mức nào.


Đau mà không khóc được, không thể giải tỏa được, nó kết thành một khối vô hình bóp nghẹt trái tim mình. Việt Trinh đã chia sẻ cảm nhận đau thương này của chính chị khi kể lại chị đã đau đớn đến mức nào trước sự ra đi bất ngờ của người anh trai và một năm sau là người mẹ thân yêu của chị. 

Nỗi đau mất đi những người thân yêu nhất đã giáng một đòn chí mạng khiến Việt Trinh tỉnh ngộ và đến với đạo Phật từ đó. Lý vô thường của đạo Phật đã mở ra cho chị một hướng đi mới – hướng đi của đạo đức và tâm linh.

Việt Trinh đã thực sự trở về với đạo Phật bằng những sự trải nghiệm của chính bản thân mình để hôm nay chị chia sẻ với các bạn trẻ những điều cảm nhận tận đáy lòng của mình.


Tuesday, February 15, 2011

*** LÁ BỒ ĐỀ BAY

Tác giả:    Thi Thi Hồng Ngọc


Sáng sớm, ánh nắng bình minh rạng rỡ tràn ngập căn phòng nhỏ xinh xắn báo hiệu một ngày mới đầy an lạc. Tường Vi mở tung cánh cửa để gió cùng nắng hớn hở ùa vào phòng, mấy chậu hồng nhung, cúc vàng, cúc trắng trên bệ cửa sổ cũng rung rinh như rút rích cười đùa với các nàng nắng và gió tinh nghịch kia. Tường Vi mỉm cười, tâm hồn nàng thật hân hoan thơi thới, hôm nay là mồng một, nàng quyết định đi chùa.

Chùa cách thành phố nơi nàng cư ngụ không xa. Tường vi đã đến đó vài lần cùng bạn bè nhân những dịp Tết, nhưng hôm nay nàng vẫn có cảm giác náo nức như ngày đầu tiên đến chùa, ngày mà nàng được biết cuối cùng thì cũng có một ngôi già lam thanh tịnh được thành lập nơi chốn xa xôi hẻo lánh này. 

Nghe mẹ có đi chùa thì nên rủ thêm người thì sẽ được phúc lạc, nàng chẳng biết sự thật có như thế không, nhưng bạn bè đông đảo đi cùng thì được cái vui là chắc rồi. Nghĩ một thoáng, nàng bấm số cho chị Linh, bà nầy cũng thích đi chùa lắm đây, rủ chắc sẽ được ngồi xe hơi thay vì xe lửa rồi.

-   Hôm nay thì không được đâu, chị còn bao nhiêu việc phải giải quyết ở nhà, lần khác nha!

“Mô Phật” Biết ra sao ngày sau?, tôi mà chờ mấy cái “lần khác nha” của mấy người chắc thiên thu cũng chẳng được đi chùa (!?!). Thôi được rồi, đi một mình cũng có làm sao đâu, thay vì trên đường tụ ba tụ bảy, tán dóc hết chuyện mình chuyện người thì ta có dịp tịnh khẩu, thực hành pháp môn thiền định hay là trì danh niệm Phật xem sao.
Chần chờ ít phút trước tủ áo, nàng tặc lưỡi “kín cổng cao tường” nhất, liếc mình trong tấm gương lớn, Tường Vi cầm thỏi son, hộp phấn rồi lại buông xuống tự nhủ rằng hôm nay đi chùa mà, xấu đẹp mặc kệ, nhất quyết không trang điểm, mấy vị sư cô có ai son phấn gì đâu mà người nào cũng đẹp một cách tự nhiên, thuần hậu đấy thôi.

Mua vé ở quầy tự động xong, khi bước lên tàu thì trời vần vũ mây đen, ôi cuộc đời! Đúng là vô thường! Đang nắng đó sắp sửa mưa đây, mà lát nữa mưa sẽ to lắm rồi những bông xinh đẹp hoa ban sáng sẽ ra sao nhỉ? Chắc là sẽ tàn tạ, te tua, tơi tả, tan tác mất thôi. 

Nàng liên tưởng đến kiếp sống của một người con gái đẹp, ngày nào xinh sắn mỹ miều, làn da căng bóng, đôi môi mọng, khóe mắt long lanh, không một vết chân cò chân chim, chân…đại bàng, trãi qua thời gian dài đăng đẳng hỡi ơi! “Chìm đáy nước, cá lờ đờ lặn. Lững lơ trời nhạn ngẩn ngơ sa”, chỉ có điều không phải “sa” và “lặn” vì mỹ nhân đẹp mà vì nhìn thấy…ớn quá theo sự tàn phá của thời gian. 

Nhất là các bà siêng năng đi tu (ở thẩm mỹ viện thay vì ở chùa), về chiều sắc đẹp càng tuột dốc thảm hại thắng không kịp, tự mình còn thấy…ái ngại khi ngắm mình chứ đừng nói thiên hạ.

Tàu chuyển bánh, mô Phật! Trời vẫn chưa mưa, không biết đi đến chùa có kịp trước khi trời đổ mưa không? Mẹ bảo: “Ở hiền gặp lành con ạ”. Đi chùa thì đúng là ở hiền rồi, nhưng có gặp lành không thì chưa chắc. Trên đường đi mà gặp việc bất như ý, mình có giữ được tâm bình lặng hay là nổi xung thiên lên, xin Phật nghĩ tu một chút, để con xắn tay trợn mắt giải quyết xong vụ này rồi tu tiếp(!).

Mô Phật! Chợt thấy mình đi xa quá rồi, tâm tán loạn, chẳng thiền không định, mà lại còn chưa niệm Phật câu nào, phải áp dụng phương pháp gì để trấn áp vọng niệm lung tung này đây? Áp dụng phương pháp sư ông Làng Mai trước đi nhỉ! “Hít vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mỉm cười”.

Tường Vi thở ra một hơi dài khoan khoái tâm hồn, nàng nhẹ nhõm trở lại được năm phút…Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra không biết giờ này mẹ đang làm gì nhỉ? Mình hứa sang năm về, mẹ chắc đếm từng ngày, tội mẹ quá! Không biết con nhỏ Ly có nhớ đưa mẹ đi chùa thường xuyên không? Tội nghiệp! Ôi chao hít thở đến đâu rồi, sáu hay bảy hay năm nhỉ? Nguy rồi! Lại vọng tưởng lung tung loạn xị cả lên thì hỏng rồi.

Hít vào, thở ra, ái chà! Xe đến rồi! Bây giờ thì đã ung dung ngồi trên xe rồi. A Di Đà Phật, thực hành phương pháp trì danh niệm Phật mới được, sau này lỡ “có gì” còn được Ngài thương xót cứu vớt cho. Bây giờ thì thở vào A Di, thở ra Đà Phật, tâm nàng từ từ tĩnh lặng , nếu ngồi thiền tại cõi Ta Bà này mà cầu mong quả vị giải thoát coi bộ hơi…bị lâu à nha! Chi bằng đi đường tắt cầu vãng sanh cực lạc, từ đó tu tiếp thì chắc như bắp rồi.

Cổng chùa kia rồi, thật cảm động hoan hỷ làm sao! Tường vi không biết mọi người có cảm giác như thế nào, khi nhìn thấy cổng chùa từ xa xa, nhưng với nàng thì đó là cả một niềm tin yêu, hy vọng, một sự vui sướng gập tràn không gì so sánh được. 

Nhìn thấy tấm bảng tên chùa, trên cây cột có lá cờ Phật giáo tung bay phất phới, mái chùa cong cong, nàng như thấy cả đất nước Việt Nam yêu quí, hình ảnh ông bà nội ngoại, cha mẹ và những kỷ niệm êm đềm liên quan đến những ngôi chùa trong thời thơ ấu, cả quảng đời trầm luân khổ ải đã qua, của mình, của người thân, bạn bè, dân tộc, mà bùi ngùi cảm xúc dạt dào.

Vừa bước vào, nàng chạm mặt với một người đàn ông đứng tuổi, nét mặt nghiêm nghị cứ như là một vị chánh án đang giữa một phiên tòa không bằng. Tuy nhiên theo thông lệ khi đến chùa, nàng vẫn chắp tay cúi đầu lễ phép chào: “A Di Đà Phật”. Người kia cũng đáp lễ bằng phương thức ấy và mỉm cười, khi cười nhìn anh ta “đẹp chai” hẳn lên, có thế chứ!

Nàng thầm nghĩ: “Sao không cười sớm một chút để tôi bớt tội sân si trong lòng?”.

-   Cô lên chánh điện lễ Phật phải không? Đi theo lối này nè!

-   Ái chà cọp dạy mèo leo cây đây. Nếu anh ta biết mình lên chùa lần nầy là chẳn chục, chắc không dám dạy bảo tận tình thế đâu.

-  Dạ cám ơn anh.

Chánh Điện trang nghiêm thanh tịnh, văng vẳng đâu đây tiếng nhạc niệm Phật thanh thoát, nhẹ nhàng. Nàng thắp một nén nhang, làm mọi nghi lễ như mọi lần đến chùa, sau đó bắt đầu quì xuống lễ Phật.

Cố gắng không tập cái thói quen “xin xỏ Phật” như mọi khi, bắt đầu là: “Đức Phật từ bi phù hộ cho bố mẹ con dồi dào sức khỏe, các em con làm ăn phát tài để tụi em con khỏi xin tiền của con (!). Cầu Phật ban cho con có sức khỏe, mọi sự bình an may mắn, làm ăn khấm khá để con có tiền…cúng dường”.

May mà Tường Vi không có con, chứ không thì bài khấn vái chắc phải dài thêm một đọan nữa đại loại: “xin Đức Phật từ bi thương xót cho mấy đứa con của con được mạnh khỏe, nhiều may mắn, thi đâu đậu đó, biết hiếu thảo với cha mẹ, mấy đứa cháu hay ăn chóng lớn, vạn sự như ý v.v…và v.v…”. 

Rồi còn ông chồng nữa chứ, thế nào cũng phải có vài dòng khấn cho ông ta như sau: “Cầu Phật phù hộ cho chồng con nhìn thấy con thì mắt hoa mày quáng tưởng là tiên nữ, nhìn gái thì cứ như yêu tinh, quỉ sứ mặt xanh, nanh đỏ ghê rợn chẳng dám gần, để anh ta lo làm ăn, thương vợ chiều con”. Rồi còn gì gì nữa ai mà biết được (!).

 
Ôi đời sống! Đức Phật từ bi lắm, thương xót chúng sinh nhiều vô vàn, nhưng Ngài đâu phải là tham quan ô lại đâu, nhận vài thẻ hương, ít bánh trái, chút tiền ít ỏi bỏ vào thùng phước sương, để rồi phải thực hiện mọi đòi hỏi tham lam vô độ của tất cả mọi người?... 

Đi chùa lễ Phật, kính Tăng là để học hỏi Phật Pháp, khai mở trí tuệ, áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hàng ngày, đó mới là người con Phật chân chính. Nhưng nàng tin chắc rằng mười người đến chùa, hết chín người cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, họa may còn sót lại một vài người “sau khi” cầu nguyện cho mình và người thân, mới nghĩ đến cầu cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc.

Cảnh chùa tĩnh mịch yên lặng, tiếng mưa rơi rả rích ngoài hiên, Tường Vi sửa lại tư thế ngồi xếp bằng, bắt đầu lắng tâm thực hành pháp thiền định: hít vào A Di, thở ra Đà Phật. Thời gian chậm vhậm trôi qua, nàng xả thiền ngồi dậy lễ Phật, hồi hướng, rồi rời chánh điện, đi tìm Thầy trụ trì, đi vòng vòng lại gặp “ông chánh án” ban nãy.
-   Cô giỏi quá! Còn trẻ mà đã biết ngồi thiền, tư thế rất đẹp, “Sư phụ” cô là ai vậy?

-   Là… Internet.

-   Tôi nghĩ sự am hiểu của cô hẳn không tệ, xin cô chỉ giáo…

-   Khoan khoan! Anh vui lòng đừng dùng những từ ngữ quá trịnh trọng làm tôi… sợ, theo như nhận xét của tôi thì anh cũng là người am tường về Phật Pháp đây. Tôi không dám múa rìu qua mắt thợ đâu nha.

-   Tôi tên là Quốc, rất hân hạnh được làm quen với cô. Tôi được phép hỏi quí danh cô không?

Nàng rụt rè ngó quanh “bà con ta” lâu ngày êm đềm quá cũng đâm chán, nếu có ai thấy nàng đơn thân độc mã nói chuyện với người lạ, mà còn bắt tay với “giai” nữa thì ối giời ơi! Chuyện nhỏ biến thành Scandal sôi nổi “đạo hạnh” bao năm gìn giữ đi đời còn gì.

-   A Di Đà Phật! Danh của tôi không có gì quí nên chẳng muốn nêu ra, pháp danh tôi là Diệu Hoa. Xin hỏi pháp danh đạo hữu là gì ạ!?

    -  Pháp danh tôi là Huệ Trí.

Quốc cười rất tươi (với nụ cười này, đánh chết Tường Vi cũng không tin “đạo hữu” này đang độc thân).

-  Hy vọng cô sẽ không thất vọng về tình bạn đạo nầy.

“Bạn đạo” thôi, cố ráng thêm chữ “tình” làm gì cho rắc rối sự đời không biết nữa? Mặc dù vậy, cuộc gặp gỡ với ông bạn đạo cũng khiến nàng “quên” niệm Phật trong suốt đoạn đường về. Đêm đó, Tường vi nằm mơ thấy có người hao hao giống ông “bạn đạo” tặng cho nàng một lá bồ đề, nhưng vừa chạm đến tay thì chiếc lá vụt bay đi mất…*


Tuesday, February 1, 2011

*** Ni Trưởng Như Thanh - Sen Hồng Một Đóa

  TKN Thích Nữ Chân Liễu
   
Lò lửa sen hồng mấy kẻ hay
Mây che nguyệt rạng chẳng phô bày
Ngọc lành ẩn đá không phai sắc
Bể thánh nguồn chơn mặc tỉnh say
.

Bốn câu thơ trên là của Ni trưởng Như Thanh, một bậc tài năng xuất chúng, được sự ngưỡng mộ và khâm phục trong ni giới Phật giáo Việt Nam. Như ngọn đuốc sáng bừng trong đêm tối, Ni trưởng là một bậc chân tu vì đạo quên mình, sanh năm Tân Hợi 1911, tại huyện Thủ đức, Gia định.

Thiện duyên đưa đến, Ni trưởng xuất gia năm 22 tuổi, đệ tử của Tổ Pháp Ấn, chùa Phước Tường, Thủ đức.
Với trí thông minh và lòng hiếu học, cộng thêm nhẫn lực vô biên, Ni trưởng đã đạt được nhiều thành quả trên đường tham học Phật pháp từ Nam ra đến Huế và Hà nội.

Năm 1972, Ni trưởng được Giáo hội giao trọng trách Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông, và giữ vai trò Cố vấn tối cao trong các nhiệm kỳ kế tiếp. Ni trưởng viên tịch năm 1999, để lại bao thương tiếc cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.

Vài trang giấy không đủ nói lên hết được đạo hạnh và gương sáng của người, nhưng để chia sẻ với những người đang học Phật và tu Phật, những lời dạy quí báu của người ghi lại trong quyển sách “Cuộc đời và sự nghiệp của Sư trưởng Như Thanh”, xem như một nhân duyên thiện lành đặc biệt.

Thành kính đảnh lễ giác linh Ni trưởng với tấm lòng tri ân và niềm cảm phục của hàng hậu học.

Nếu như xưa kia, khi đồng ý cho bà di mẫu Maha baxà bađề (Kiều Đàm) cùng 500 người nữ xuất gia trong giáo pháp, đức Thế tôn tuyên báo rằng chánh pháp vì vậy sẽ diệt vong sớm 500 năm. Không ai có thể đoán rằng chánh pháp tồn tại bao lâu để làm bài toán trừ 500 năm đó.

Khi đề cập đến quá trình lịch sử đức Phật không cho phép người nữ xuất gia một cách dễ dàng, Ni trưởng đã có một cái nhìn tuệ giác như sau:

“Vì trách nhiệm của người xuất gia rất nặng nề, khó nhọc, mà phạm hạnh cũng khó thực hành, bởi thế đức Phật không hứa cho người nữ xuất gia một cách dễ dàng.
Đây là bổn ý của đức Phật muốn mở rộng con đường hóa đạo cho tất cả người nữ sau này.
Bởi sự giáo dục của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên họ ở trong thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc ràng, làm cho tâm tính không được sáng tỏ, ý chí không được sâu rộng.
Đức Phật vì muốn cho hàng Tỳ kheo ni chứng đến các pháp thiệt tánh mà Ngài đem tâm bình đẳng phương tiện dẫn dắt, khiến cho mọi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa ở thế gian trở nên tốt đẹp.
Hàng Tỳ kheo ni ở trong chánh pháp của đức Phật gặp được cơ hội mở mang, truyền bá, làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo công đức vô lượng”.

Đạo Phật đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo Phật không phải là lý thuyết suông để bàn luận. Đạo là sống và hành. Đạo là sự chân thật, sáng suốt, đậm đà và thanh thoát.

Để dẫn dắt người nữ tu vượt qua được bản tánh nhi nữ thường tình, nhờ khép mình trong giới pháp, vượt qua mọi trở ngại thuận nghịch bằng khả năng tu chứng, thì người nữ tu vẫn có thể phụng sự và xiển dương Chánh pháp. Ni trưởng chủ trương một căn bản đào tạo ni tài, lập nguyện kiên cường cho ni chúng, trao truyền tam học Giới, Định, Tuệ. Ni trưởng dạy rằng:

1) Giới học là giềng mối của người tu Phật.

2) Định học là phép tắc điều phục tâm trí.

3) Tuệ học là năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái.

Ni trưởng Như Thanh đã trải thân phục vụ đạo pháp, khiến cho pháp âm truyền bá khắp nơi. Người là một bậc Ni trưởng đạo cao, đức trọng, làu thông kinh luật, trước tác, dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị.

Ni trưởng đã dẫn dắt hàng ni chúng hậu học thoát khỏi những mặc cảm tự ti, sợ hãi, nhút nhát và khai sáng trí tuệ cho hàng đệ tử. Công đức của người thực vô lượng, vô biên.

Ni trưởng luôn luôn quan niệm, để chia sẻ gánh nặng hoằng pháp, người xuất gia, không phân biệt tăng hay ni, đều có trách nhiệm góp phần công đức để đền đáp công ơn sâu dầy của đức Thế tôn. Khi nói lên phạm hạnh cao quí của hàng xuất gia, trong tác phẩm “Giới đức khiêm ưu”, Ni trưởng đã viết như sau:

Phẩm hạnh cao quí của tăng già là do công phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả chúng sanh, tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích cho mọi người, như khát thì cho uống, đói cho cơm ăn, bịnh cho thuốc uống, lạnh cho áo ấm, gặp sợ sệt giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng suốt, cho đến bỏ mình cho cọp đói ăn cũng gọi là đức hỷ xả bố thí.
Trong hoàn cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm phen bẻ gảy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc là cố gắng học tập, việc khó làm cố gắng siêng làm. Dẫu có người khuấy rối, dằn ép cũng chẳng căm tức, giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên, chẳng tác sắc nóng nảy bứt rứt”.

Với khả năng, đức độ, tâm từ bi của người đã tạo cho hàng ni chúng xuất gia tiến trên con đường giác ngộ và giải thoát. Sự tương kính nhau như tỷ muội, dùng tâm niệm bình đẳng đối xử, phẩm hạnh của người tu trong chúng nên tự xét lại mình để chừa bỏ lỗi lầm, thay vì phóng tâm  nghĩ đến hơn thua, phải quấy, đúng sai, được mất, biểu lộ đức tính hiền từ, lễ độ, khiêm cung, khoan dung, hòa lạc, khiến người xung quanh sanh lòng quí mến như hoa sen nở hương thơm ngát.

Huynh đệ cùng nhau gắng học hành
Lời qua tiếng lại nhớ đừng tranh
Quyết lòng sửa tánh cho thanh tịnh
Xuân đến đời ta đặng tiếng thanh.
(Hoa Đạo)

Trải qua trong cõi phù sinh
Học rành chữ nhẫn hữu hình ngại chi
Nhẫn là phước quả từ bi
Giúp ta thâm ngộ vô vi đạo mầu.
(Hoa Đạo)

Lời thơ của người là khuôn vàng thước ngọc. Thơ văn của một bậc chân tu đầy đạo tình đạo vị, người đọc cần lắng lòng tỉnh ngộ. Ni trưởng còn khuyên nhắc về trách nhiệm của Tỳ kheo ni về sự nghiệp hoằng pháp như sau:

1) Xuất gia vì mục tiêu giải thoát tự thân và tha nhân.

2) Thiết tha cầu học chánh pháp giữa biển sống vô thường.

3) Thể hiện nghiêm túc nếp sống phạm hạnh Giới-Định-Tuệ,

4) Phát triển văn huệ, tư huệ và tu huệ.

5) Tích cực tiếp dẫn hàng hậu học.

6) Thao thức vì sự nghiệp độ sanh, hưng khởi chánh pháp.

Ni trưởng là một vị Bồ tát dấn thân từ ni giới, mang tâm niệm cứu khổ chúng sanh, thức tỉnh mọi người quay về với tình thương vô hạn trong giới pháp của đức Thích ca mâu ni.

Dòng pháp nhũ của Ni trưởng Như Thanh là dòng nước cam lộ của đức Quán thế âm, làm dịu mát những nhiệt não của thế gian, khơi dậy ngọn đèn trí tuệ, không bị tham sân si trói buộc, sai khiến, hành xử lợi mình lợi người, sống với tâm Phật không còn bị vô minh che lấp.

Trong tác phẩm “Hành Bồ Tát Đạo”, Ni trưởng đã đem tâm huyết của mình để truyền trao lại cho người xuất gia cũng như tại gia. Ni trưởng viết:

Nếu trong một lúc nào đó, chúng ta lắng yên được tâm thức, để cho nó vắng lặng rỗng rang, chẳng khởi lên một niệm suy tính so lường, thì tất nhiên trong sát na ấy, chúng ta nhìn rõ được bản lai diện mục của mình, thấy rõ chân tâm thể tánh của mình vốn bất sanh bất diệt, nó xóa bỏ mọi ranh giới ngã và nhơn, thiện và ác.
Trong giây phút linh diệu ấy, tâm thức chúng ta bổng nhẹ nhàng, cõi lòng mở rộng với muôn ngàn thương yêu, tình cảm trong sáng dịu dàng, nó chẳng phải là thứ tình cảm hạn hẹp, phát sinh từ lòng ái dục, mà phát xuất từ tâm bi, nên nó bao la, tươi nhuần và bình đẳng, vô phân biệt.
Bấy giờ cái nhìn của chúng ta đối với vạn vật cũng trong suốt và bình đẳng như thế.
Đây là giây phút mà tâm ta vô trụ, không vướng mắc, hoàn toàn tự do.
Nếu sống mãi với tâm vô trụ như thế, chúng ta đã được giải thoát, được an nhiên tự tại”.

Chư Phật không có tâm phân biệt đây là tăng, đây là ni, đây là tướng nam, đây là tướng nữ, tướng đẹp tướng xấu, tướng giàu tướng nghèo. Chư Phật bình đẳng tuyệt đối trong phong cách hóa độ chúng sanh. Bổn phận người tu phải nhận ra con đường chư Phật đã đi và đã đến.

Đức Phật đã dạy chúng ta hãy mồi ngọn đuốc chánh pháp của Ngài để tự thắp sáng trí tuệ, thấy đường mà tu, thấy đạo mà hành. Các đấng Tôn sư đã tha thiết giảng dạy, khuyến tu, chớ nên đợi khi vô thường đến, không phân biệt già trẻ, sang hèn, tuổi đời càng chồng chất, đau yếu bệnh tật sanh ra, làm cho con đường đi đến giác ngộ ngày càng thêm khó khăn, trắc trở. Bao nhiêu đời kiếp đã qua, con người mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, không biết đến kiếp nào mới vượt thoát được.

Tóm lại, Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập thế cứu khổ của người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni trưởng đã vân du khắp mọi miền đất nước, để thuyết giảng không hề mệt mỏi.

Cho đến ngày thanh thản ra đi, để lại cho đời và cho đạo  nhiều tác phẩm có giá trị tu học, Ni trưởng vẫn còn mong các đệ tử Phật gia phải giống như hoa sen rạng ngời ánh sáng trí tuệ, đem ngọn đuốc chánh pháp soi rọi khắp thế gian u tối, giúp mọi người thoát khỏi bùn nhơ khổ đau phiền não, vượt lên trên mặt nước như những đóa sen hồng tỏa hương thơm tinh khiết của sự giác ngộ và giải thoát.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU


VAN LẠY VÀ CẦU XIN

Đức Phật không phải là thần linh. Ngài không ban phước giáng họa cho ai cả. Ngài là bậc Đạo Sư tìm thấy và chỉ dạy chúng sanh con đường tu giải thoát khỏi cảnh khổ của lục đạo luân hồi. Các vị Tăng Ni tu đang theo Phật cũng không phải là thần, hay thánh. Các vị Tăng Ni không có năng lực nào để cầu xin cho người chết vãng sanh cực lạc theo kiểu cách lễ trai đàn bạt mạng giải oan của các tà sư trong chùa.  Tại sao? Bởi vì các tà sư còn chưa chắc được vãng sanh kia mà. Chúng ta là người tu theo Phật phải có nhận thức sáng suốt biết rõ con đường đúng sai, chứ không phải ai nói gì cũng nghe, ai bày vẽ gì cũng nhắm mắt tin theo!!!
 
Trước Tam bảo, người ta lạy lục cầu xin: xin tai qua nạn khỏi, xin giàu sang phú quý, xin tiền tài, xin địa vị. Họ mang theo rất nhiều lễ vật, xì xụp khấn vái, cầu xin. Họ đem tiền thật mua tiền giả (vàng mã) dâng cúng thánh thần, họ cầu xin thật nhiều tiền thật trở lại. Họ đem dâng cúng một vài trái cây, cầu xin sống thọ. Khắp nơi trong khuôn viên chùa chỗ nào cũng thấy cắm nhang đèn, tiền lẻ rải khắp nơi; lò hóa vàng giả rừng rực cháy mang theo muôn vàn lãng phí. Cảnh chen chúc, giẫm đạp nhau ở cửa thiền để được làm lễ cầu an, cầu siêu, cúng sao giải hạn trong dịp đầu năm không thể chấp nhận được. Tại sao? Cầu an chưa thấy được bình an, đã phải nhập viện vì thương tích do chen lấn, tranh giành giẫm đạp nhau. 

Trong tình hình đó, đáng lẽ hàng ngũ Tăng Ni ở các ngôi chùa cần phải hướng dẫn, chấn chỉnh lại nhận thức sai lệch của người dân, của Phật tử. Tuy nhiên, với lý luận phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng mà nhiều ngôi chùa, nhiều nhà sư lại dễ dãi chấp nhận việc người dân, người Phật tử đến chùa chỉ để cầu khẩn van xin phi chánh pháp. Hình ảnh một số nhà sư cúng sao giải hạn, gieo quẻ âm dương, chọn ngày lành tháng tốt, đã và đang dẫn dắt một số khá đông Phật tử dần dần mang đậm màu sắc mê tín, tà pháp, lạc vào tà đạo, nhưng cứ ngỡ rằng mình đi chùa như thế là tốt, được tiếng khen thuần thành, tu giỏi.

Để trả lại sự trang nghiêm thanh tịnh cho chùa chiền, giúp chúng sinh nhận thức rõ về giáo lý và lời dạy của Đức Phật, chùa chiền nên truyền bá phương pháp tu tâm thanh tịnh và tìm được an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại.  
Các bậc chân tu nhận sự cúng dường của bá tánh không phải để tranh danh đoạt lợi, mà dành nhiều thời gian nghiên cứu kinh điển, hiểu rõ lời kinh, tâm từ bi thương xót, giảng dạy Phật tử có căn bản về nhận thức đạo Phật là đạo trí tuệ, đi đúng chánh đạo. 
Tu theo Phật là tự lực, nổ lực, cố gắng để đạt được sự sáng suốt, giác ngộ giải thoát, từ bi trí tuệ. 

Trước hết là chuyển đổi nhận thức đầy mê tín đến cuồng tín do tham sân si của phần đông Phật tử không có giáo lý căn bản, cần nhất là hàng ngũ Tăng Ni tại các chùa chiền hay tự viện. 
Xã hội trong và ngoài nước nhận biết đạo Phật thông qua các hoạt động của hàng ngũ Tăng Ni, Phật tử, sự hiểu sai lầm về đạo Phật đầy mê tín thần quyền trong xã hội văn minh hiện đại ngày nay thật vô cùng tai hại. Cuộc sống thường ngày của Tăng Ni và Phật tử là tấm gương phản chiếu tư tưởng Phật giáo trực tiếp đến cộng đồng và xã hội ngày nay trong và ngoài nước.
Nếu chúng ta tự nhận là người đang tu theo Phật, đều phải đau lòng và có trách nhiệm đánh lên tiếng chuông thức tỉnh những người đang ngụp lặn trôi theo dòng sông mê!
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Ban Biên-Tập Phật-Học Tịnh-Quang Canada






CHUYỆN TU HÀNH
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 16

- Thưa Thầy, tôi có nghe câu nói: Thứ nhứt thì tu tại gia. Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vô chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thọ bát, bái sám, thì đúng là tu rồi, dễ hiểu quá. Còn tu tại gia, tu tại chợ là làm sao, thế nào, kính xin Thầy từ bi chỉ dạy cho. Cám ơn Thầy trước.

- Thông thường, ai cũng nghĩ vô chùa mới gọi là tu thì quả thật không sai. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn đúng.

Người thường đi chùa, hoặc cạo tóc ở luôn trong chùa, nếu không tu sửa tâm tánh, vẫn tham lam, vẫn sân hận, vẫn si mê, có khi còn làm phách, dè bĩu, hay khinh khi người khác không biết tu như mình, rủa xả, mắng nhiếc người khác đọa địa ngục, phê phán không căn cứ, phỉ báng không tiếc lời, thích ăn trên ngồi trước, giành miếng ngon, lựa chỗ tốt, thì không gọi là tu được. Có chăng đó chỉ là hình tướng người tu, dù tại gia hay xuất gia, gọi là tu tướng mà thôi.

Còn tu tại gia, tu tại chợ thì rộng rãi hơn, chiếm toàn bộ thời gian trong một ngày, dù là người tại gia hay xuất gia. Lúc nào cũng tự xem xét, hôm nay mình có làm tổn thương ai qua hành động, lời nói và trong tư tưởng. Chẳng hạn như tại chợ, mình có để xe nghinh ngang giữa đường, bất kể người khác có đi qua được hay không. Chẳng hạn như tại gia, mình có ngồi coi TV chờ ông chồng (hay bà vợ) mời ăn cơm, ăn xong coi TV tiếp, không phụ giúp làm cơm, không phụ giúp dọn bàn, dọn dẹp, rửa chén bát, có khi lại ỷ mình là người làm ra tiền, nuôi cả nhà!

Tóm lại, tu tâm dưỡng tánh, hôm nay mình tốt hơn chính mình hôm qua, đó mới chính thực là tu.[]   





PHẬT VÀ TÂM


Cái tâm muôn pháp là tâm Phật

Tâm là Phật, Phật tâm là một

Lẽ ấy như nhiên khắp cổ kim

Xuân đến tự nhiên hoa xuân nở


Cũng không tội, cũng không có phước

Cũng không được, cũng không  gì mất

Phàm thánh trời người như điện chớp

Tâm thể không thị cũng không phi


Đi cũng thiền, ngồi cũng là thiền

Trong lò lửa rực, một hoa sen

Bọt trong bể cả, nổi khi chìm

Cái hạnh vô thường tất cả không


Tỉnh thức tỉnh thức, chớ ngủ mê

Phật thánh nơi tâm thường hiển hiện.
Thiện ác vẫn còn trong lục đạo
Tự giác mới mong thoát luân hồi



Lương tâm và Phật tâm
 TK THÍCH CHÂN TUỆ

Trên thế gian này, từ cổ chí kim, có nhiều tôn giáo, xuất hiện tồn tại, cho đến ngày nay. Có nhiều tôn giáo, giáo phái tín ngưỡng, thành lập sinh hoạt, chỉ một thời gian, rồi tự biến mất. Theo luật đào thải, cái gì xấu dở, không được tiện dụng, không lợi ích gì, không ai chịu dùng, không ai nghe theo, sẽ không tồn tại. Nhờ trí sáng suốt, chúng ta có thể, phân biệt rõ ràng, tà giáo chánh giáo.
 
Tà giáo là những, giáo phái tín ngưỡng, không đem lợi ích, đến cho con người, không đem bình yên, ở trong tâm trí, chỉ đem lợi lộc, cho một thiểu số, giai cấp lãnh đạo. Tà giáo chủ trương, không cần trí tuệ, chỉ cần đức tin, làm cho con người, ngày càng u mê, ngu ngơ tăm tối, nhắm mắt tin càng, bất cứ những gì, vị giáo chủ nói, bất cứ những gì, giáo hội phán ra, không được suy nghĩ, phân biệt đúng sai, thường được gọi là: những người cuồng tín. Tà giáo thường hay, xúi giục tín đồ, hy sinh tài sản, của cải vật chất, kể cả sanh mạng, bất cứ giá nào, để được phong thánh, được lên thiên đàng. Tà giáo có mặt, ở các xứ nghèo, lạc hậu chậm tiến, dân trí thấp kém, và còn xuất hiện, ở xứ văn minh, vật chất cực thịnh, chẳng hạn như là: xứ Canada, Hoa Kỳ Anh Pháp, Ðức Ý Nhật Bản. Tà giáo phát triển, phạm vi giới hạn, không gian thời gian, không thể phát triển, trên khắp toàn cầu, nếu không xử dụng, chiến tranh xâm lược, thủ đoạn tinh thần, mê hoặc nhân tâm, linh thiêng huyền bí, cưỡng ép hôn nhân, chính trị kinh tế. Khoa học nhân loại, ngày càng phát triển, tà giáo lu mờ, niềm tin lung lay, tín đồ giảm sút, giáo chủ lo âu.
 
Chánh giáo là những, tôn giáo chân chánh, chỉ dạy pháp môn, phương pháp dẹp trừ, phiền não khổ đau, đem lại bình yên, trong tâm con người, đem lại an lạc, hạnh phúc hiện đời, giúp đỡ con người, giác ngộ giải thoát, khỏi vòng sanh tử, luân hồi nghiệp báo. Chánh giáo chủ trương, bất tùy phân biệt, không hề kỳ thị, phát triển đến đâu, hòa nhập đến đó, trong sự hòa bình, hòa hợp bình an, không gây chiến tranh, không gây mâu thuẫn, không chống trái nhau, như nước pha sữa, tuy hai mà một. Chánh giáo chủ trương, tự do tín ngưỡng, phát triển tâm linh, tự nguyện tự tín. Chánh giáo luôn luôn, đem lại cho người, những niềm an ủi, ngay trong đời sống, những niềm vui tươi, cho những tâm hồn, đang bị nhiệt não, vì các hệ lụy, của thế gian này. Khoa học nhân loại, ngày càng phát triển, chánh giáo sáng tỏ, chứng minh rõ ràng, niềm tin vững chắc, nhờ các phát minh, khoa học kỹ thuật. Dĩ nhiên tín đồ, ngày càng nhiều hơn, niềm tin vững hơn, có nhiều lợi ích, thực tế rõ ràng, ngay trong cuộc sống.
 
Người ta cho rằng: tất cả tôn giáo, đại cương giáo lý, thảy đều giống nhau, chẳng hạn như là: khuyên răn dạy dỗ, làm lành lánh dữ, cải ác tùng thiện, nhằm đạt mục tiêu, kiến tạo xã hội, an ninh trật tự, bình yên hạnh phúc. Nói chung, để đạt cứu cánh, hầu hết tôn giáo, đều dạy con người, sống với "Lương Tâm". Thế giới luôn luôn, đề cao phát triển, lương tâm con người, lương tâm nhân loại. Chúng ta hãy thử, tìm hiểu thử xem: Lương Tâm là gì? Người có lương tâm, khác với người đời, như thế nào? Còn trong giáo lý đạo Phật, từ ngữ "Phật Tâm" có ý nghĩa gì, có sự khác biệt nào không?
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu: "Lương tâm và Phật Tâm", theo quan điểm của đạo Phật mà thôi. Người trên thế gian tin Phật, thờ Phật, cúng Phật, lạy Phật, chưa hẳn là Phật Tử chân chánh, dù tại gia hay xuất gia.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai".
 
Tại sao vậy? Bởi vì, những người chỉ biết, tin tưởng Như Lai, tức là tin Phật, như là tin tưởng, một vị thần linh, hay là thượng đế, quyền năng tối thượng, ban phước những ai, cầu nguyện phụng thờ, lễ lạy tin theo, sẵn sàng giáng họa, những ai không tin, không chịu thờ lạy, những người như vậy, chỉ là những người, phỉ báng đạo Phật. Những người như vậy, chẳng hiểu biết gì, Chánh Pháp đạo Phật, dù họ ở chùa, hay ở tại gia, dù họ mang bất cứ hình tướng nào chăng nữa.
Chúng ta nên biết một cách rõ ràng, một cách tường tận và chắc chắn rằng: Ðức Phật không phải là thần linh, không bao giờ ban phước hay giáng họa cho bất cứ ai. Ðức Phật là con người đã giác ngộ và giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Ðức Phật chỉ dạy rành rẽ con đường tu tập, giảng giải đầy đủ các pháp môn hành trì, tùy theo căn cơ trình độ, hoàn cảnh và sở nguyện của mỗi người, dành cho bất cứ ai muốn đi đến chỗ giác ngộ và giải thoát, không phân biệt là Phật Tử hay không là Phật Tử, không phân biệt tại gia hay xuất gia. Nhưng muốn được giác ngộ và giải thoát, hay ít ra, muốn được an lạc và hạnh phúc hiện đời, con người phải làm sao, phải làm gì?
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp".
 
Phật độ hữu duyên nhơn. Ðức Phật chỉ có thể cứu độ những người hữu duyên, tức là những người chịu thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của mình, bằng cách mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, nhờ đó mới có thể phá tan màn vô minh, thấu rõ chân lý, biết pháp môn thực hành. Nói một cách khác, nếu những người nào, phát tâm bồ đề, cầu học Chánh Pháp, thực hành giáo lý, vào trong đời sống, hằng ngày hiện đời, mới có thể nếm, pháp vị vi diệu, cao siêu mầu nhiệm, mới có thể sống, an lạc hạnh phúc, mới có thể đạt, cứu kính đạo Phật, đó là: "giác ngộ và giải thoát". Cũng ví dụ như, một vị bác sĩ, chỉ có thể cứu, những người có bệnh, nhưng chịu chữa trị, chịu nghe lời khuyên, và chịu uống thuốc, mà thôi.
Toàn bộ giáo lý nhà Phật được ghi chép trong tam tạng kinh điển, gồm có: Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. Ngày xưa, có một vị quan Tể Tướng đến tham vấn đạo, muốn được biết cốt tủy của đạo Phật, làm sao có thể tóm gọn được tam tạng giáo kinh điển nhà Phật. Một vị Thiền Sư bèn chỉ dạy bài kệ, trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, như sau:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.

Nghĩa là:

Việc ác không làm
Làm các việc thiện
Giữ tâm thanh tịnh
Ðúng lời Phật dạy.
 
Vị quan đó nói: Như vậy dễ quá, con nít lên tám, cũng có thể biết. Thiền sư từ tốn: Con nít lên tám, có thể biết được, ông già tám mươi, suốt đời thực hành, cũng vẫn chưa xong! Thực vậy, biết suông nói suông, việc gì cũng dễ, nhưng thực hành được, một cách chu toàn, mới thực là khó.
* Hơn nữa, chúng ta nên biết rằng: Người nào thực hành được hai câu đầu của bài kệ, đó chính là người có lương tâm ở trên thế gian này. Còn người nào thực hành được đến câu thứ ba của bài kệ, đó chính là người sống được với Phật Tâm, còn được gọi là bản tâm thanh tịnh của con người. Ðó mới chính thực là cứu kính của đạo Phật.
Nói một cách đơn giản, lương tâm là tâm lương thiện, hiền lương, thiện lành. Theo sách vở thế gian, lương tâm có nghĩa là: nhận thức nội tâm theo lẽ phải, nhận thức đúng sai, phải trái, khả năng tự đánh giá hành vi của mình về phương diện lẽ sống và đạo đức. Lương tâm có nghĩa là tâm công minh, chính trực, sách vở gọi là: Công Tâm hay Trực Tâm. Người có lương tâm luôn luôn chỉ làm các việc thiện lành, lương thiện, ích lợi cho mình và cho người, với tất cả tấm lòng chân thật, hiền lương, không làm các việc xấu ác, lợi mình hại người, không gây phiền não khổ đau cho người khác. Người có lương tâm luôn luôn đem lại sự bình yên hạnh phúc cho mọi người, an ninh trật tự cho xã hội, là mẫu người lý tưởng, đáng tôn trọng kính mến, nhưng rất khó thực hiện. Tại sao vậy? Bởi vì: Sống trên thế gian này,
- "việc ác không làm" không phải là điều dễ dàng.

- "làm các việc thiện" không phải là điều dễ dàng.

- "giữ tâm thanh tịnh" là điều khó khăn nhứt.
* * *

ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
PHẬT GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG?
DÂNG SỚ CẦU AN CÚNG SAO GIẢI HẠN
LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT?
TÁM ĐIỀU NGƯỜI TRÍ CẦN BIẾT RÕ.(PHTQ 16)
HẠNH BỐ THÍ (CTLĐ 1)